Bối cảnh REDD ở Việt Nam

ThienNhien.Net – Theo thống kê chính thức, Việt Nam đã mất khoảng một nửa diện tích rừng che phủ trong khoảng thời gian từ năm 1943 tới 1990. Kể từ đó, Việt Nam duy trì xu hướng phát triển tất cả các kiểu rừng vào khoảng 2% mỗi năm. Tuy nhiên, ngay cả khi tỷ lệ rừng che phủ đã tăng, chất lượng rừng vẫn không ngừng suy thoái. Trong khi đó, những khu rừng có diện tích giảm rõ rệt và bị suy thoái nghiêm trọng lại là những khu rừng chứa nhiều carbon nhất. Việt Nam lại là một trong 9 nước được Chương trình Giảm phát thải nhà kính từ mất rừng và suy thoái rừng ở các nước phát triển của Liên hiệp quốc (UN-REDD) lựa chọn thực hiện dự án thí điểm và là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa ra Chương trình REDD quốc gia. Coi REDD là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam gặp khó khăn gì trong triển khai REDD?


Ai đang tham gia các hoạt động của REDD và tham gia như thế nào?

Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) là cơ quan Nhà nước chuyên trách những hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, nhưng Cục Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) lại là cơ quan chỉ đạo chiến lược phát triển REDD, thông qua Ban chỉ đạo Quốc gia Ứng phó với Biến đổi Khí hậu.

NN&PTNT công nhận REDD là một vấn đề xuyên quốc gia và liên ngành, cần “sự tham gia rộng khắp và tích cực của các bên liên quan”.

Tiểu ban Hạn chế Biến đổi Khí hậu và REDD, với những người tham gia cả trong và ngoài chính phủ đã lập Ý tưởng Kế hoạch (R-PIN) trong Quỹ Đối tác Các-bon Lâm nghiệp (FCPF) ở Việt Nam với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm phát triển những chính sách và chương trình của REDD, đồng thời thiết lập một quy trình tham vấn.

Việc thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia Ứng phó với Biến đổi Khí hậu gồm cả Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT và những bộ khác do Thủ tướng chủ trì, cho thấy vấn đề hợp tác giữa các bộ ngành đã được đồng tình. Tuy nhiên, trên thực tế việc phân trách trong những hoạt động đối phó với biến đổi khí hậu có thể khiến cho hoạt động hợp tác trở nên khó khăn.

Những mạng lưới không chính thức có các hoạt động đối phó với biến đổi khí hậu cũng tham gia khá tích cực trong cuộc thảo luận cấp quốc gia về REDD. Nhóm Công tác về Biến đổi Khí hậu (CCWG) của các tổ chức phi chính phủ – một mạng lưới xã hội dân sự tự khởi xướng của các tổ chức phi chính phủ quốc tế và Việt Nam – đang cung cấp tin tức về tiến triển của những chương trình liên quan tới biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đặc biệt là việc triển khai các biện pháp và chiến lược nhằm thực hiện REDD, đồng thời đưa ra những thông điệp nhằm tác động tới Chương trình Khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi Khí hậu.

Những biện pháp đảm bảo sự tham gia vào công tác thiết lập và thực hiện REDD ở cấp địa phương phần nhiều vẫn mới chỉ là đề xuất. Trong hệ thống hiện thời, các chỉ dẫn còn hạn chế về tính minh bạch thể chế và hành chính từ cấp quốc gia tới cấp tỉnh và địa phương, chủ yếu là do điều kiện tài chính.

Trong hệ thống rừng cộng đồng hiện thời, không có sự liên kết giữa các hoạt động của chính quyền với thực tế áp dụng nên không thu hút được nhiều người tham gia. Ví dụ, một khảo sát về quản lý rừng cộng đồng do Nhóm Nghiên cứu Quản lý Rừng (FGLG) tiến hành ở một số làng tại Đắk Lak và Thừa Thiên Huế cho thấy những điều chỉnh thiếu linh hoạt của chính quyền có thể khiến người dân mất quyền sở hữu đất rừng và gây ra những ảnh hưởng xấu cho quá trình thực hiện REDD.

Các nhà hoạt động xã hội dân sự đã đề xuất những biện pháp khác để khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, như hình thức Câu lạc bộ Sinh kế Cộng đồng đã được thử nghiệm và hiện tại được đưa vào chính sách quản lý địa phương.

Chia sẻ lợi ích REDD ở Việt Nam: thách thức nào phía trước?

Cũng như những nước khác nằm trong quá trình triển khai REDD, người ta vẫn hi vọng rằng hệ thống REDD có tiềm năng mang lại lợi ích ở nhiều cấp. Song cho tới nay vẫn chưa ai biết rõ về những lợi ích mà REDD mang lại và cách thức chúng được chia sẻ.

Chiến lược REDD hiện nay đề xuất rằng những cơ quan chính quyền chính thức ở tất cả các cấp sẽ được hưởng lợi, bao gồm cả các cộng đồng nông thôn phụ thuộc vào rừng, các ban quản lý tài nguyên thiên nhiên và những cơ quan bảo vệ rừng của địa phương.

Kinh nghiệm từ hệ thống chia sẻ lợi ích hiện nay cho thấy vẫn còn nhiều thách thức phía trước. Một trong những giải pháp bảo vệ rừng là trợ cấp hay trả thù lao cho những người dân địa phương để họ ngừng khai thác rừng. Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn thiếu những tiêu chí cụ thể để đánh giá những nỗ lực bảo tồn và từ đó quyết định mức bồi thường phải trả cho cộng đồng.

Một chiến lược khác là đầu tư vào phát triển trồng rừng. Song mối quan hệ giữa phát triển trồng rừng ở Việt Nam và REDD cùng những kết quả mang lại cho người dân nghèo ở nông thôn hiện không rõ ràng và cần được xem xét thêm. Tuy nhiên, điều dễ thấy là hệ thống này không dành cho những người nghèo nhất, vì việc trồng rừng đòi hỏi các hộ gia đình phải có nguồn nhân lực và tài chính nhất định.

Một lựa chọn khác đang được xem xét là sử dụng Quỹ Bảo vệ và Phát triển Rừng (FFPD) như một cơ chế chia sẻ lợi ích theo REDD. Trước đó, các hộ gia đình cũng đã nhận được thù lao cho việc bảo vệ rừng trong khu vực rừng phòng hộ dưới sự quản lý của Ban Quản lý Rừng chính phủ. Tuy vậy, những khoản tiền này không phải từ quá trình thực hiện REDD và còn quá ít ỏi để có thể khiến cho người dân địa phương thay đổi hành vi.

Câu lạc bộ Sinh kế Cộng đồng là những tổ chức dựa vào cộng đồng được triển khai thí điểm tại 6 huyện của tỉnh Phú Thọ trong khuôn khổ Dự án phát triển nông thôn bền vững nhằm cải thiện sinh kế cho nông dân nghèo và khuyến khích họ tham gia vào quá trình ra quyết định. Những câu lạc bộ này đã cải thiện chất lượng quản lý rừng, chia sẻ lợi ích. Hai phần ba số người lãnh đạo các câu lạc bộ là phụ nữ. Hầu hết các thành viên nghèo đều đã nâng cao thu nhập từ những hoạt động nông nghiệp nhờ vào dự án này. 

Chính phủ đã chỉ định Bộ NN&PTNT chuẩn bị một nghị định mới về PFES để thực hiện trên cả nước kể từ năm 2010. Vấn đề then chốt liên quan tới những biện pháp chia sẻ lợi ích này việc phân bổ đất rừng. Đây từng là một việc khó khăn, trong một số trường hợp đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa những nỗ lực phân bố đất của chính phủ với tập tục địa phương dựa vào truyền thống lâu đời trong sử dụng tài nguyên và đất đai.

Nếu không có sự rõ ràng về quyền sở hữu ở những khu vực trọng tâm triển khai REDD, Việt Nam sẽ rất khó để áp dụng bất kỳ hệ thống nào nhằm mang lại lợi ích cho người dân địa phương.

Một vấn đề khác liên quan tới hiệu quả của các hệ thống giám sát. Giám sát dự trữ carbon theo hộ gia đình là một thách thức, do có nhiều hộ gia đình quản lý rừng ở Việt Nam và do năng lực hạn chế. Điều này có thể gây khó khăn cho việc chia sẻ lợi ích ở cấp tỉnh, ảnh hưởng lớn tới việc áp dụng những biện pháp của PFES cho REDD khi làm việc với các cá nhân và cộng đồng. Cho tới nay, kinh nghiệm trong giám sát những nỗ lực bảo tồn cho thấy các dự án riêng lẻ khuyến khích sở hữu cộng đồng đã đạt được kết quả tốt hơn so với những nỗ lực của chính phủ.

Những kết quả từ nghiên cứu FGLG ở tỉnh Dắk Lắk và Thừa Thiên Huế cũng chứng minh điều này. Trong khi những đơn vị bảo vệ rừng thuộc chính quyền địa phương phải làm việc vất vả để thực thi quy định của nhà nước, thì những hương ước bảo vệ rừng lại được tôn trọng và tuân thủ, mặc dù không được chính quyền địa phương chính thức công nhận.

Hình thức của hệ thống tài chính được thiết lập để quản lý Quỹ REDD cũng là một nhân tố quan trọng trong chia sẻ lợi ích. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam là một tổ chức được xem là cơ chế chia sẻ lợi ích khả thi ở Việt Nam. Ngân hàng này có những tác động tích cực tới tỷ lệ nghèo, song vẫn còn nhiều vấn đề có thể này sinh khi triển khai REDD.

Rõ ràng là để đảm bảo sự công bằng trong triển khai REDD, cần hiểu rõ lợi ích và rủi ro của các bên liên quan để tìm ra cách để giải quyết những vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện và dung hòa thiệt hơn giữa các cách tiếp cận khác nhau.

Việt Nam đang trong quá trình triển khai một chiến lược tập trung vào REDD. Việc tập trung vùng Tây Nguyên, nơi có tỷ lệ phá rừng và suy thoái rừng cao, có thể mang lại cơ hội cho những người dân nông thôn nghèo và những người dân tộc thiểu số tập trung nhiều ở khu vực này. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây ra những tác động ngược lại nếu những các cách tiếp cận REDD không được tiến hành cẩn trọng.

Việc chú trọng nhiều vào đề xuất liên kết REDD với quản lý rừng cộng dồng là một dấu hiệu khả quan chứng tỏ việc tham gia của cộng đồng đang được xem xét, song vẫn còn nhiều thách thức phải vượt qua trong các hệ thống này để đảm bảo rằng những người nghèo nhất trong cộng đồng cũng được hưởng lợi.

 Một loạt các biện pháp đã được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu của REDD:
– Quản lý rừng cộng đồng, biện phát được coi là then chốt để ngăn chặn suy thoái rừng thông qua hỗ trợ tài chính lâu dài nhằm phát triển rừng bền vững;
– Phân giới tài sản rừng cố định để tăng cường an ninh cho nguồn tài nguyên rừng;
– Khuyến khích phát triển trồng rừng để giảm áp lực lên rừng tự nhiên;
– Khuyến khích sản xuất và kinh doanh những sản phẩm lâm nghiệp để cải thiện đời sống cho người dân;
– Tăng cường giám sát và thực thi luật;
– Những chính sách liên ngành, trong đó bao gồm cả tăng cường sản xuất nông nghiệp và khuyến khích sử dụng biogas để giảm tiêu thụ gỗ nhiên liệu.