Từ năm 2009 thí điểm dán nhãn sản phẩm sinh thái

Thông tin từ Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, từ năm 2009, nhãn sinh thái sản phẩm hàng hóa sẽ được áp dụng thí điểm và đếm năm 2011 sẽ mở rộng trên toàn quốc và theo lộ trình, 10% các sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu và 50% hàng hóa tiêu dùng nội địa được cấp nhãn sinh thái vào năm 2020. Nhãn sản phẩm. Nhãn sinh thái sản phẩm hàng hóa do do Tổng cục Môi trường cấp.

Ông Nguyễn Hoàng Lưu – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cho biết, hiện nay Việt Nam (VN) mới chỉ có 5% sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ là có đủ tiêu chuẩn dán nhãn sinh thái và chưa có tổ chức đánh giá và cấp nhãn sinh thái, mà mới chỉ có các chương trình nghiên cứu và mô hình đề xuất về lý thuyết.

Tiêu chí chủ yếu để đánh giá và cấp nhãn sinh thái là đánh giá vòng đời sản phẩm, nhưng hiện vẫn còn xa lạ với các cơ quan quản lý môi trường, chưa có quy định và văn bản hướng dẫn đánh giá vòng đời sản phẩm. Trong thị trường mới chỉ có các sản phẩm mang tính nhãn sinh thái kiểu II do nhà sản xuất và dịch vụ đưa ra như: rau sạch, thịt sạch, tủ lạnh không sử dụng khí CFC… nhưng chưa được cộng đồng thừa nhận và tin tưởng.

Theo ông Lưu, tất cả sản phẩm như thực phẩm, sản phẩm y tế, một số sản phẩm mang tính chất dịch vụ… đều cần làm nhãn sinh thái. Đặc biệt, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, nhưng hiện chưa có tiêu chuẩn nhãn sinh thái chung nên nhiều khi sản phẩm của nước ta vào thị trường một nước nào đó cũng bị rào cản này gây khó khăn. Việt Nam cần nhanh chóng áp dụng tiêu chuẩn quốc tế về nhãn sinh thái. Nhãn sinh thái được coi là tiêu chuẩn chung về môi trường thay cho những quy định về hàng rào thuế quan.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn để sản phẩm của mình đủ tiêu chuẩn được dán nhãn sinh thái. Bởi vì, phải đổi mới công nghệ, đầu tư vốn… duy trì quy trình sản xuất cũng như sản phẩm đầu ra đáp ứng đủ các tiêu chuẩn môi trường. Nhưng đổi lại, doanh nghiệp (DN) nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình, khi sản phẩm có nhãn sinh thái thì người tiêu dùng sẽ yên tâm mua hàng hơn.

Nhãn sinh thái hay gọi là nhãn xanh, nhãn môi trường được hiểu như là các nhãn mác của sản phẩm, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện với môi trường hơn so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Nhãn sinh thái chính là sự công bố bằng lời hoặc ký hiệu hay sơ đồ nhằm chỉ rõ các thuộc tính môi trường của sản phẩm và dịch vụ. Qua đó, người tiêu dùng và khách hàng có nhiều thông tin hơn về các tác động của sản phẩm hoặc dịch vụ đối với môi trường, sức khoẻ con người và họ ngày càng có nhận thức cao hơn đối với những vấn đề môi trường. Xuất phát từ lý do này làm cho ngày càng có nhiều người tiêu dùng thay đổi về ý thức khi mua hàng.

Nhãn sinh thái gồm 3 loại: nhãn sinh thái kiểu I là nhãn sinh thái được chứng nhận, được cấp cho sản phẩm của nhà sản xuất theo yêu cầu hoặc vì lợi ích của người tiêu dùng bởi Chính phủ hoặc tổ chức độc lập với người sản xuất hoặc người tiêu dùng. Nhãn sinh thái kiểu II là nhãn sinh thái tự công bố, do các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và nhà phân phối đưa ra, dựa trên những chứng cứ và kết quả tự đánh giá hoặc được đánh giá bởi các bên liên quan khác theo yêu cầu của họ. Nhãn sinh thái kiểu III là nhãn tự nguyện, là nhãn của các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng cho người tiêu dùng theo chương trình tự nguyện của ngành kinh tế và các tổ chức kinh tế đề xuất.

Trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu đến năm 2020, 100% sản phẩm hàng hoá xuất khẩu (có nhu cầu) và 50% hàng hoá tiêu dùng nội địa (thuộc đối tượng cấp nhãn) của Việt Nam sẽ đựơc ghi nhãn sinh thái theo tiêu chuẩn ISO 14024. Đây là cơ sở và định hướng quan trọng để các doanh nghiệp phấn đấu vì một nền sản xuất sạch và cho ra đời các sản phẩm hàng hoá an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc phấn đấu để đạt nhãn sinh thái còn khá mới mẻ và chưa thực sự được nhiều doanh nghiệp quan tâm.