Bảo vệ môi trường trong khai thác quặng ti-tan tại Bình Thuận

ThienNhien.Net – Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, tổng trữ lượng quặng của tỉnh Bình Thuận là hàng trăm triệu tấn, trữ lượng quặng phân bố chủ yếu trong tầng cát đỏ và cát xám trên diện tích khoảng 10% diện tích của tỉnh. Hiện nay tình trạng vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trong khai thác quặng còn khá phổ biến, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn tồn tại ở địa phương đã gây không ít bức xúc cho người dân trong khu vực thời gian qua.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 17 dự án khai thác mỏ ti-tan đã quy hoạch dự kiến cấp phép khai thác, trong đó có tám dự án đã thăm dò xong. Tuy nhiên, thời gian gần đây, việc khai thác quặng ti-tan trên diện rộng đã phá hủy cảnh quan và địa hình tự nhiên như làm gia tăng hiện tượng cát bay; gây ô nhiễm nguồn nước ngầm. Quá trình khai thác và chế biến quặng ti-tan đã thải ra nhiều hóa chất độc hại gây ô nhiễm môi trường, làm tích tụ và phát tán phóng xạ (dù chỉ ở mức độ ít nguy hiểm), dẫn đến tình trạng sa mạc hóa toàn bộ phần cát sau khi tuyển sạch khoáng sản vật nặng cùng với vi sinh, mùn, chất hữu cơ…

Khai thác quặng ti-tan tại tỉnh Bình Thuận thải ra nhiều hóa chất độc hại gây ô nhiễm môi trường (Ảnh: Baotintuc.vn)
Khai thác quặng ti-tan tại tỉnh Bình Thuận thải ra nhiều hóa chất độc hại gây ô nhiễm môi trường (Ảnh: Baotintuc.vn)

Theo đánh giá của các chuyên gia, đất cồn cát Bình Thuận chiếm một diện tích khá lớn (khoảng 16% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, nằm dọc bờ biển kéo dài từ ranh giới Ninh Thuận đến Bà Rịa- Vũng Tàu), có thành phần cơ giới nhẹ, tầng dày, nghèo mùn, giữ nước kém. Đáng chú ý, vào mùa khô (bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 hằng năm), gió mùa đông bắc thổi mạnh thường xuyên, kéo theo cát, bụi bay trong không trung và trên mặt đất từ biển vào bên trong đất liền.

Do thiếu hệ thống rừng, vành đai chắn gió, nên việc di chuyển dễ dàng của cát đã làm tràn lấp những khu vực canh tác, các khu dân cư tập trung sinh sống hoặc tạo nên những cồn cát mới… Bên cạnh đó, nếu khai thác ti-tan với quy mô lớn, diện tích rộng và khả năng sẽ đào xuống rất sâu dưới mực nước biển thì việc khai thác cát là rất khó khăn, gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, sinh thái, an sinh xã hội đối với cộng đồng dân cư ven biển.

Báo cáo của Đoàn kiểm tra Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy: Hiện có năm công ty khai thác ti-tan (Công ty Đô Thành; Đường Lâm; Dương Anh; Sao Mai; Hưng Thịnh Phát), trên địa bàn hai xã Hòa Thắng, Hồng Phong (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận). Đoàn đã lập bản đồ hiện trạng việc khai thác chưa đúng quy định, khai thác không có thiết kế mỏ; chưa có giấy phép xả thải vào nguồn nước… Theo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường), năm đơn vị khai thác đều sử dụng nước biển để tuyển quặng, mỗi ngày sử dụng từ 3.000 đến 4.000 m 3 nước/mỏ, cho nên nước biển từ trên các gò cao dễ dàng thấm vào đất, cát đã xóa sổ toàn bộ các giếng nước ngọt mà người dân đang sử dụng, phá hủy đất nông nghiệp quanh khu vực khai thác.

Thực tế cho thấy, mặc dù thời gian qua, tỉnh Bình Thuận đã tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhưng vẫn còn phát hiện nhiều vi phạm trong lĩnh vực này như: Năm 2012 các cơ quan chức năng đã phát hiện 22 vụ, thu giữ hơn bốn nghìn tấn ti-tan và nhiều phương tiện khác, đặc biệt vào tháng 11-2013, trong quá trình khai thác ti-tan đã gây sự cố vỡ bờ moong tại mỏ ti-tan Suối Nhung của Công ty cổ phần Đầu tư khoáng sản và Thương mại Bình Thuận gây bức xúc lớn trong dư luận về công tác quản lý bảo vệ môi trường. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận, lượng bùn thải trong hố moong rộng khoảng một ha chảy dọc đường nội bộ mỏ, phá vỡ khoảng 100 mét tường rào hai bên cổng chính tràn ra biển. Sự cố môi trường nói trên cho thấy những tác động tiêu cực của các dự án khai thác ti-tan gây ra cho môi trường là rất lớn, không chỉ hiện tại mà còn ảnh hưởng đến thế hệ mai sau…

Để tăng cường bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản ti-tan tại tỉnh Bình Thuận, cũng như tiếp tục phát huy những lợi thế nguồn khoáng sản ti-tan mang lại một cách hiệu quả và bền vững, cần nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước và việc giám sát của các tổ chức chính trị – xã hội, nhất là sự tham gia của cộng đồng trong lĩnh vực này. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác khoáng sản gắn liền với công tác bảo vệ môi trường, cũng như xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản theo đúng quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, cần phát huy các nguồn lực xã hội nhằm phát triển bền vững công nghiệp khai thác và cải tạo, phục hồi môi trường; điều chỉnh quy định phí bảo vệ môi trường có tính đến mức độ ô nhiễm môi trường như hệ số bóc đất đá trong khai thác lộ thiên, tỷ lệ thu hồi tinh quặng từ quặng nguyên khai, thành phần chất gây ô nhiễm trong quặng. Minh bạch các quy định về cấp phép khai thác khoáng sản (cách tính, thu nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; đấu thầu, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản…), cũng như phân cấp, phân vùng, phân quyền quản lý, tránh chồng chéo. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sạch, thân thiện với môi trường trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; phát triển các công nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải; triển khai nhân rộng mô hình sản xuất sạch hơn cho cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực chế biến và phục hồi môi trường.

Công khai các thông tin liên quan đến cộng đồng, cùng với cơ chế tham gia giám sát của cộng đồng về việc thực hiện phục hồi môi trường trong quá trình khai thác mỏ. Thiết lập đường dây nóng, trang điện tử để người dân thông báo về ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản gây ra. Các đối tượng được cấp phép khai thác khoáng sản, thực hiện nghiêm túc việc ký quỹ bảo vệ môi trường, với số tiền bằng tổng kinh phí thực hiện cải tạo, phục hồi, nhằm bảo đảm chắc chắn nguồn tài chính cho việc cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác một cách có hiệu quả…