Bình Thuận: Nguy cơ ô nhiễm môi trường từ các dự án khai thác khoáng sản

Hoạt động khai thác khoáng sản đang góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế tỉnh Bình Thuận. Mặc dù vậy, tại một số khu vực khai thác có dấu hiệu tác động xấu tới môi trường xung quanh, biến dạng cảnh quan khiến người dân lo lắng.

Tài nguyên phong phú nhưng phải biết khai thác đúng cách

Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại: vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, có giá trị thương mại và công nghiệp là nước khoáng, sét, đá xây dựng.

Nước khoáng: có nhiều điểm nước khoáng như Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong), Đa Kai (huyện Đức Linh), Đồng Kho (huyện Tánh Linh) Văn Lâm, Hàm Cường, Tà kóu (huyện Hàm Thuận Nam), Phong Điền (huyện Hàm Tân). Riêng 4 điểm Vĩnh Hảo, Văn Lâm, Hàm Cường, Đa Kai là loại nước khoáng thuộc loại cacbonat – natri được dùng làm nước giải khát, khả năng khai thác khoảng 300 triệu lít/năm. Nước khoáng khu vực Tuy Phong có đủ điều kiện để sản xuất tảo với sản lượng lớn.

Trữ lượng sa khoáng Ilmenit 1,08 triệu tấn, Zicon 193 nghìn tấn, đi cùng với Zicon còn có nhiều Monazit và đất hiếm. Hàm lượng TiO2 43- 45%, hàm lượng ZrO2 48, 6 – 59, 5%.

Sa khoáng Ilmenit – Zicon phân bố ở mũi Kê Gà (huyện Hàm Thuận Nam), mũi Né (TP. Phan Thiết), Tân Thiện (huyện Hàm Tân), Thiện ái (huyện Bắc Bình). Nguồn khoáng sản lớn nhất của Bình Thuận là cát trắng thủy tinh với tổng trữ lượng 496 triệu m3 cấp P2, hàm lượng SiO2 97- 99%. Phân bố ở Dinh Thầy, Tân An, Tân Thắng (huyện Hàm Tân), Cây Táo, Long Thịnh, Hồng Sơn (huyện Hàm Thuận Nam), Nhơn Thành, Phan Rí và Phan Rí Thành (huyện Bắc Bình). Có thể thoả mãn yêu cầu sản xuất thủy tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc xuất khẩu nguyên liệu.

Một điểm khai thác đá trên địa bàn huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

Khoáng vật liệu xây dựng có cát kết vôi 3,9 triệu m3 cấp P2 phân bố ở Vĩnh Hảo và Phước Thể (huyện Tuy Phong), đá vôi san hô (huyện Tuy Phong). Sét gạch ngói phân bố ở nhiều nơi (Hàm Thuận Nam, Đức linh, Tánh Linh, Bắc Bình). Đá xây dựng và trang trí ở Tà Kóu (Hàm Thuận Nam) trữ lượng 45 triệu m3, Núi Nhọn (huyện Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m3.

Thời gian qua, ngành công nghiệp khai thác của tỉnh Bình Thuận đã phát triển nhanh chóng và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những lo ngại về việc tận dung khai thác tài nguyên khoáng sản mà không theo quy trình khoa học, quy định quản lý pháp luật nhà nước đãn tới nhiều hệ luỵ.

Trong đó, hậu quả nghiêm trọng nhất là làm mất đất, mất rừng, ô nhiễm nước, ô nhiễm bụi, khí độc, lãng phí tài nguyên. Quá trình vận chuyển, chế biến khoáng sản gây ô nhiễm bụi, khí, nước và chất thải rắn. Đồng thời, sử dụng khoáng sản sẽ gây ra ô nhiễm không khí (SO2, bụi, khí độc…) và ô nhiễm nguồn nước.

Chính vì thế mà Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận đưa các dự án khai thác khoáng sản vào nhóm 1 về tiêu chí môi trường – nhóm có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao.

Theo đánh giá của các nhà khoa học, đất cồn cát ven biển Bình Thuận chiếm một diện tích khá lớn (khoảng 16% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, nằm dọc theo bờ biển, kéo dài từ ranh giới Ninh Thuận đến Bà Rịa – Vũng Tàu), có thành phần cơ giới nhẹ, tầng dày, nghèo mùn, giữ nước kém. Vào mùa khô (bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), gió mùa Đông Bắc thổi mạnh thường xuyên, kéo theo cát, bụi bay trong không trung và trên bề mặt đất từ biển vào bên trong đất liền, do thiếu hệ thống rừng vành đai chắn gió nên việc di chuyển dễ dàng của cát đã tràn lấp lên những khu vực canh tác, các khu dân cư tập trung sinh sống hoặc tạo nên những cồn cát mới… Ảnh hưởng nhiều nhất tại các thôn Hồng Thanh, Hồng Thịnh, Hồng Trung thuộc xã Hồng Phong, thôn Hồng Lâm, Hồng Chính, Hồng Thắng xã Hòa Thắng – huyện Bắc Bình.

Nếu khai thác titan với quy mô lớn, diện rộng và khả năng sẽ xuống rất sâu dưới mực nước biển (thân quặng titan ở Bình Thuận có nơi đến độ sâu 200 m) thì việc khai thác sẽ rất khó khăn, gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường, sinh thái, an sinh xã hội đối với cộng đồng cư dân ven biển, rất cần có nghiên cứu đánh giá tác động môi trường tổng thể, toàn diện.

Xử lý trách nhiệm người đứng đầu nếu để xảy ra sai phạm ở các mỏ khoáng sản

Trên địa bàn tỉnh Bình Thuận thời gian qua xuất hiện nhiều điểm khai thác trái phép. Trước tình trạng này, Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) tỉnh Bình Thuận đã phối hợp với Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh và các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương kiểm tra các vị trí khai thác khoáng sản trái phép tại các địa phương và báo cáo UBND tỉnh chỉ đạo xử lý từng trường hợp cụ thể.

Theo Sở TN&MT tỉnh Bình Thuận, trong năm 2021, Bình Thuận đã xử phạt các vụ khai thác khoáng sản trái phép với số tiền 5,66 tỷ đồng. Trong đó, chủ yếu là khai thác cát trái phép tại khu vực lòng hồ Biển Lạc xã Gia An, huyện Tánh Linh; khai thác đất cát bồi nền trái phép khu vực núi Đất giáp ranh giữa xã Sơn Mỹ và xã Tân Xuân, huyện Hàm Tân; Khai thác vật liệu trái phép thi công cao tốc Bắc – Nam…

Bà Phan Thị Xuân Thu – Phó Giám đốc Sở TN&MT Bình Thuận cho hay, để góp phần ngăn chặn triệt để tình trạng khai thác khoáng sản trái phép trên địa bàn, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cấp xã, huyện phải vào cuộc quyết liệt hơn nữa, phát huy vai trò cơ sở, nhất là cấp xã trong quản lý khoáng sản; kiểm tra, kiểm soát, xử lý tình trạng khai thác, vận chuyển, tàng trữ, tiêu thụ khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường trái phép.

“Nếu trên địa bàn nào trong tỉnh Bình Thuận mà để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài hoặc có cán bộ, công chức dưới quyền tiêu cực, tham nhũng thì phải tổ chức kiểm điểm, xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu và điều chuyển, bố trí công tác khác”, bà Thu nói.

Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận – ông Phan Văn Đăng, cũng yêu cầu Sở TN&MT tiếp tục phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai các biện pháp quyết liệt, đồng bộ xử lý dứt điểm tình trạng khai thác trái phép.

Trong số đó tập trung xử lý tại các điểm đã được lực lượng chức năng của tỉnh kiểm tra, xử lý, không để tái diễn. Sở TN&NT đẩy nhanh tiến độ cấp phép khai thác khoáng sản thông thường để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.

Các huyện, thị xã thành phố thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ, quản lý nguồn khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn. Nếu trên địa bàn nào để xảy ra tình trạng khai thác khoáng sản trái phép diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, có cán bộ dưới quyền tiêu cực thì phải tổ chức kiểm điểm người đứng đầu theo quy định.

Các địa phương xem xét xử lý hình sự các trường hợp manh động, vi phạm nhiều lần để tăng tính răn đe; rà soát và nắm cụ thể các khu vực, “điểm nóng” trên địa bàn, nhất là các vị trí khai thác, tập kết vật liệu xây dựng trái phép. Trên cơ sở đó, các địa phương lập danh sách các đối tượng và mở đợt cao điểm đấu tranh, xử lý, xóa bỏ “điểm nóng.”