Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất Đông Nam Á

Đó là kết quả khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á của Ngân hàng thế giới trong chương trình đánh giá về năng lượng cho châu Á. Theo đó, tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam ước đạt 513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công suất của thuỷ điện Sơn La, và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020.

Tất nhiên để chuyển từ tiềm năng lý thuyết thành tiềm năng có thể khai thác, đến tiềm năng kỹ thuật, và cuối cùng thành tiềm năng kinh tế là cả một câu chuyện dài, nhưng điều đó không ngăn cản việc chúng ta xem xét thấu đáo tiềm năng to lớn về năng lượng gió ở nước ta.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), hai vùng giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió của nước ta là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không những có vận tốc trung bình lớn mà còn có một thuận lợi khác. Đó là số lượng các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió Nam và Đông Nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6-7m/s, tức là vận tốc có thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3-3,5MW.

Thực tế là người dân khu vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy phát điện gió cỡ nhỏ để thắp sáng. Ở cả hai khu vực này, dân cư thưa thớt, thời tiết khô nóng khắc nghiệt và đều là những vùng dân tộc đặc biệt khó khăn.

Nhược điểm lớn nhất của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chế độ gió. Vì vậy, theo các chuyên gia, khi thiết kế cần nghiên cứu hết sức chi tiết về chế độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối (ảnh hưởng không tốt đến máy phát).

Cũng vì những lý do có tính phụ thuộc vào điều kiện môi trường như trên, năng lượng gió tuy ngày càng phổ biến và quan trọng nhưng không thể là nguồn năng lượng chủ lực.

Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa điện gió và thủy điện tích năng lại mở ra cơ hội cho Việt Nam. Một mặt, có thể đa dạng hóa được nguồn năng lượng, kết hợp những nguồn năng lượng truyền thống với những nguồn năng lượng tái tạo sạch với chi phí hợp lý; mặt khác có thể khai thác được thế mạnh, đồng thời hạn chế của mỗi nguồn năng lượng và tận dụng các nguồn năng lượng này trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau.

Một điểm cần lưu ý nữa là khả năng các trạm điện gió sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành, cũng như có thể phá vỡ cảnh quan tự nhiên và ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô tuyến nếu các yếu tố về kỹ thuật không được quan tâm đúng mức. Do vậy, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến các khu dân cư, khu du lịch để không gây những tác động tiêu cực.

Khác với điện hạt nhân luôn cần một quy trình kỹ thuật và giám sát hết sức nghiêm ngặt, việc xây lắp điện gió không đòi hỏi quy trình khắt khe đó. TS.Vũ Thành Tự An và Đàm Quang Minh, những chuyên gia về điện gió cho rằng với kinh nghiệm phát triển điện gió thành công của các nước trên thế giới, với những lợi thế về mặt địa lí của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể phát triển năng lượng điện gió để đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. “Liệu Việt Nam có thể đi tắt, đón đầu trong phát triển nguồn năng lượng hay không phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách ngày hôm nay”.

Mười năm trở lại đây điện gió phát triển đột biến, lý do trước hết nằm ở nguy cơ khủng hoảng năng lượng của các nước đã phát triển. Mặt khác, mối quan tâm ngày càng cao của các nước này về bảo vệ môi trường đã tiếp thêm sức mạnh cho những nỗ lực tìm kiếm các dạng năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường, trong đó điện gió hiển nhiên là một ứng cử viên sáng giá. Đức là nước dẫn đầu chiếm hơn 30% tổng công suất điện gió của thế giới. Sau đó là Tây Ban Nha và Mỹ.

Ở Anh, số lượng các tuốc bin phát điện bằng sức gió lắp đặt mới sẽ tiếp tục gia tăng trong vòng ít nhất 4 năm tới, mặc dù có nhiều phản đối vì chúng gây tiếng ồn và mất mỹ quan. Điều này sẽ khiến tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp năng lượng gió sẽ gia tăng nhanh hơn dự kiến. Năng lượng gió riêng ở Scotland có thể gia tăng nhiều nhất, đạt sản lượng khoảng 6000 MW vào năm 2010 tức là gấp gần 10 lần so với khoảng 665 MW trong năm nay. Các tuốc bin chạy bằng sức gió ở đất liền hiện cung cấp điện cho khoảng 3 triệu gia đình ở Anh và chiếm 5% tổng sản lượng điện của nước này.

Tại các nước châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây dựng các trạm tuốc bin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất khoảng 20% giá thành vận hành thường xuyên giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho nông dân, trong khi diện tích canh tác không bị ảnh hưởng nhiều.