Nguy cơ Đồng bằng sông Cửu Long biến mất khỏi trái đất như thế nào?

Theo các nghiên cứu quốc tế, ĐBSCL, đồng bằng sông Nile, đồng bằng Ganges (Bangladesh) là 3 đồng bằng chịu tác động mạnh nhất của nước biển dâng. Trong đó ĐBSCL sẽ là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Nếu mực nước dâng cao 2 m cuối thế kỷ này, khu vực ĐBSCL sẽ mất đi gần 1/2 diện tích đất liền, thậm chí trong vòng 100 năm nữa, ĐBSCL có thể biến mất khỏi bề mặt Trái đất.

Đập thuỷ điện trên sông Mê Kông, đoạn chảy qua Trung Quốc.

Tại Diễn đàn Mê Kông về Nước, Năng Lượng và Lương thực (GMF) 2017 vừa diễn ra tại Myanmar, các chuyên gia, học giả uy tín đến từ nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đã chỉ ra tình hình nghiêm trọng và đề xuất những giải pháp cấp bách để bảo vệ sinh thái, môi trường tại vùng hạ lưu sông Mê Kông, cũng như sinh kế của hàng triệu người dân tại khu vực này.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng hạ lưu sông Mê Kông vốn hiền hòa, ít mưa bão, là nơi cư trú của hơn 20 triệu người dân, là vùng sản xuất nông nghiệp chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, ĐBSCL đang phải đối phó với nhiều thách thức, đe dọa tới sự phát triển và sự tồn vong của khu vực này.

ĐBSCL bị thu hẹp, nguy cơ biến mất

Theo GS Đào Trọng Tứ, Trung tâm tư vấn phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi với biển đối khí hậu  (CEWAREC), những tháng đầu năm 2016, ĐBSCL đã chứng kiến những tác động nghiêm trọng do lưu lượng dòng chảy giảm mạnh, thấp nhất trong vòng 90 năm.

Hiện tượng xâm nhập mặn đã xuất hiện và diễn ra hết sức phức tạp, hầu hết các cửa sông mặn xâm nhập sâu 50-70 km ảnh hưởng tới gần 40% diện tích ĐBSCL, gần 200.000 ha lúa và vườn cây ăn trái bị thiệt hại, 155.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt.

Không chỉ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các đợt hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL của Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình trạng nước biển dâng. Hiện tại, mỗi ngày vùng ĐBSCL đang mất diện tích tương đương 1,4 sân bóng đá.

Theo các nghiên cứu quốc tế, ĐBSCL, đồng bằng sông Nile, đồng bằng Ganges (Bangladesh) là 3 đồng bằng chịu tác động mạnh nhất của nước biển dâng. Trong đó ĐBSCL sẽ là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Nếu mực nước dâng cao 2 m cuối thế kỷ này, khu vực ĐBSCL sẽ mất đi gần 1/2 diện tích đất liền, thậm chí trong vòng 100 năm nữa, ĐBSCL có thể biến mất khỏi bề mặt Trái đất.

Nghiên cứu, đánh giá về tình trạng trên, giới khoa học đã chỉ ra 2 nguyên nhân chính. Một là, quá trình biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên toàn cầu. Hai là, ảnh hưởng của việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ sông Mê Kông.

Về việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn, giới chuyên môn đã chỉ ra hai hoạt động chính góp phần làm nghiêm trọng tình hình tại vùng ĐBSCL. Đó là việc xây dựng đập thủy điện trên lưu vực sông Mê Kông và các dự án chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông khác.

Số liệu thống kê cho thấy 144 đập thủy điện đã, đang triển khai xây dựng hoặc đưa vào vận hành, trong đó có những đập thủy điện lớn được xây dựng trên dòng chính của sông Mê Kông. Những đập này sau khi hoàn thành sẽ gây tác động mạnh đến dòng chảy, chế độ lũ, phù sa bùn cát, dinh dưỡng, biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, từ đó tác động đến nhiều lĩnh vực có liên quan như thủy sản, đa dạng sinh học, giao thông thủy, nông nghiệp, sinh kế và kinh tế.

Thêm vào đó, những bất cập trong việc vận hành các thủy điện trên sông Mê Kông càng làm trầm trọng hơn các tác động tiêu cực của thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông, đặc biệt là việc thiếu chia sẻ thông tin về vận hành, số liệu dòng chảy, thời gian tích nước, xả lũ…

Trong khi đó, các dự án “nắn dòng, chuyển nước” sông Mê Kông cũng đang được các nước thượng nguồn tích cực triển khai. Cụ thể, Trung Quốc có kế hoạch đào một kênh dẫn nước từ sông Lan Thương (phần sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ Trung Quốc) vào sông Dương Tử. Thái Lan được cho là đang triển khai xây dựng các hồ chứa và vận hành các máy bơm công suất lớn để lấy nước từ sông Mê Kông nhằm giải quyết tình trạng hạn hán và phục vụ phát triển nông nghiệp tại khu vực Đông Bắc nước này với tổng kinh phí gần 2 tỷ USD…

Bơi thuyền trên sông Mê Kông.

3 nguy cơ, 4 giải pháp

Báo cáo Đánh giá môi trường Tiểu vùng sông Mê Kông của Trung tâm Quản lý môi trường quốc tế (ICEM) nêu rõ, các dự án thủy điện trên dòng chính và các dự án chuyển nước sông Mê Kông sẽ gây tổn thất lớn về kinh tế, đặt ra nhiều nguy cơ tiềm tàng. Cụ thể:

  • Giảm lưu lượng nước trong mùa khô; kết hợp ảnh hưởng biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao làm gia tăng xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, nhất là khu vực ĐBSCL.
  • Giảm lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng từ 26 triệu tấn/năm hiện nay xuống 7 triệu tấn/năm; gia tăng hiện tượng xói lở bờ sông; triệt tiêu cơ hội mở rộng lãnh thổ tại đồng bằng sông Cửu Long.
  • Thủy sản biển, nước ngọt, nuôi trồng bị ảnh hưởng với ước tính tổn thất từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD/năm; sinh kế của 14 triệu nông ngư dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.

Nhằm xây dựng cơ chế và tìm ra các giải pháp hiệu quả cho việc quản lý, chia sẻ và sử dụng nguồn nước sông Mê Kông, tại diễn đàn GMF 2017 TS. Marcel Marchand, Viện Deltares, Hà Lan và TS. Gregory Thomas, Chủ tịch Viện Di sản thiên nhiên Mỹ đã đưa ra một số giải pháp.

  • Đổi mới cách thức quản lý, sử dụng nguồn nước. Mọi hoạt động phát triển kinh tế – xã hội phải dựa trên khả năng thực tế của nguồn nước, cân bằng nước, phù hợp với các xu thế diễn biến nguồn nước trong tương lai.
  • Các khâu từ thiết kế đến quản lý vận hành nhà máy thủy điện ở thượng lưu cần phải xem xét hạn chế tối đa các mặt tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái ở vùng hạ lưu, đặc biệt là vùng đồng bằng châu thổ Mê Kông.
  • Tăng cường công tác quan trắc và theo dõi việc sử dụng nguồn nước trên toàn lưu vực. Các số liệu quan trắc cần được chia sẻ cho các quốc gia trong lưu vực.
  • Xây dựng cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế thông qua Ủy ban sông Mê Kông và các tổ chức quốc tế trong việc bảo đảm khai thác sử dụng công bằng hợp lý nguồn nước chung của 6 quốc gia trên lưu vực sông và bảo đảm sử dụng nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng không được gây thiệt hại đáng kể cho các quốc gia khác theo Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy và thông lệ quốc tế.