Bất cập trong sắp xếp, đổi mới các công ty lâm nghiệp ở Tây Nguyên

ThienNhien.Net – Các tỉnh Tây Nguyên đã sắp xếp, chuyển đổi các lâm trường quốc doanh sang thành lập 56 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (Công ty Lâm nghiệp), trong đó, Đắk Lắk, Đắk Nông mỗi tỉnh có 15 công ty; các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, Gia Lai mỗi tỉnh có từ 7 đến 11 công ty. Tuy nhiên, theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, phần lớn các Công ty Lâm nghiệp sau khi chuyển đổi sản xuất kinh doanh đều không hiệu quả, thậm chí, có nhiều công ty không có tài chính để trả lương cho cán bộ, công nhân viên trong nhiều tháng liền.

Theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các Công ty Lâm nghiệp quản lý trên 998.523 ha đất lâm nghiệp (chiếm 18% diện tích tự nhiên của cả vùng), trên đó tổng diện tích rừng đang quản lý là 868.009 ha, trong đó, rừng sản xuất là 776.733 ha, bao gồm cả rừng tự nhiên (732.404 ha) còn lại là diện tích rừng trồng và rừng phòng hộ. Bình quân 1 công ty được giao 17.830 ha đất lâm nghiệp, trong đó có 13.078 ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên và 1.630 ha rừng phòng hộ. Các công ty lâm nghiệp có tổng nguồn vốn trên 540 tỷ đồng, bình quân một công ty là 9,64 tỷ đồng, với tổng số lao động hợp đồng không xác định thời hạn (kể cả cán bộ quản lý) là 1.866 người, bình quân 33 người/công ty.

Như vậy, sau hơn 5 năm sắp xếp, chuyển đổi các lâm trường quốc doanh thành các Công ty Lâm nghiệp cũng chỉ mới xác định được vai trò, nhiệm vụ của từng đơn vị, từ đó điều chỉnh hình thức tổ chức hoạt động. Các công ty bước đầu cũng đã rà soát làm rõ được tình hình tài chính, các khoản công nợ phải thu, phải trả cũng như đất đai được giao, được cấp, cho thuê, cho mượn, tranh chấp, lấn chiếm…

Một số công ty như Công ty Lâm nghiệp Ma Đ’rắk, Krông Bông (tỉnh Đắk Lắk) có ưu thế về sản lượng gỗ khai thác hàng năm, điều kiện lập địa phù hợp với nhiều loài cây lâm nghiệp, cây công nghiệp, có lợi thế về đất đai, có một số danh lam thắng cảnh, nên các đơn vị đã tổ chức sản xuất kinh doanh đa ngành mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho người lao động, vốn rừng ngày càng phát triển.

Công ty Lâm nghiệp Ma Đ’rắk quản lý trên 26.753 ha rừng, đất rừng, có lợi thế về đất đai màu mỡ, có đồng cỏ rộng, có chỉ tiêu khai thác gỗ hàng năm… nên đã tổ chức sản xuất kinh doanh đa ngành nghề. Hiện nay, công ty trồng, chăm sóc rừng, trồng cây công nghiệp dài ngày, phát triển chăn nuôi đại gia súc, sản xuất kinh doanh cà phê, nông sản, chế biến gỗ và các mặt hàng mộc dân dụng, kinh doanh dịch vụ nhà hàng, vận tải hàng hóa…, mang lại hiệu quả kinh tế cao, thu nhập của người lao động ngày càng tăng.

Lâm trường ở Tây Nguyên (Ảnh: Báo Đắk Lắk)
Lâm trường ở Tây Nguyên (Ảnh: Báo Đắk Lắk)

Tuy nhiên, các Công ty Lâm nghiệp Buôn Wing, Chư Ma Lanh, Rừng Xanh, Ya Lốp, Ea Mơ (Đắk Lắk) sau khi chuyển đổi sang thành công ty cũng không khác gì mấy so với còn lâm trường quốc doanh. Tài nguyên rừng tiếp tục suy giảm, thu hẹp, đời sống công nhân viên gặp khó khăn. Đặc biệt, nhiều công ty lâm nghiệp vẫn phải thực hiện việc quản lý, bảo vệ cả rừng phòng hộ, rừng đặc dụng do diện tích rừng này nằm đan xen với rừng sản xuất, nhưng không được cấp đầy đủ kinh phí quản lý bảo vệ rừng cho số diện tích rừng này.

Cụ thể, Công ty Lâm nghiệp Chư Ma Lanh, nằm trên địa bàn huyện Ea Súp (Đắk Lắk) quản lý trên 14.721 ha rừng, đất lâm nghiệp, trong đó có 3.140 ha rừng đầu nguồn phòng hộ hồ Ea Súp thượng. Thế nhưng, Công ty không có nguồn tài chính để hoạt động, nhân lực tham gia quản lý bảo vệ rừng mỏng, nợ lương công nhân kéo dài nên đơn vị “bất lực” để hàng ngàn ha rừng bị “lâm tặc”, đồng bào di cư đến ngoài kế hoạch đến khai thác, lấn chiếm trái phép. Công ty hiện có 400 hộ đồng bào di cư đến ngoài lấn chiếm hàng trăm ha rừng tự nhiên, còn chặt phá trái phép tự chuyển sang làm đất nông nghiệp, đất thổ cư, lập các khu dân cư…

Mặt khác, hiện nay, nhiều công ty lâm nghiệp trên địa bàn Tây Nguyên vẫn chưa thực hiện việc rà soát, đo đạc cắm mốc, xác định ranh giới tại thực địa, chưa đo vẽ được bản đồ để làm các thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định, mới chỉ thực hiện việc rà soát, phân loại theo số liệu trên sổ sách và giao lại một phần diện tích đất cho địa phương, chưa thực hiện được việc cho doanh nghiệp thuê đất.

Một số Công ty Lâm nghiệp được địa phương cấp kinh phí hoặc ứng kinh phí của công ty để đo đạc, lập hồ sơ và đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng công ty chưa “dám” nhận, vì nhận về phải thực hiện việc ký hợp đồng thuê đất, trả tiền thuê đất hàng năm, trong khi đó, công ty chưa có khả năng tài chính để thực hiện…

Cũng theo Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, chính sách thuế tài nguyên trong lâm nghiệp hiện nay không hợp lý, do thuế suất quá cao, chiếm từ 10 đến 35%, thậm chí sản phẩm củi cũng phải chịu thuế suất từ 1 đến 5%. Các công ty lâm nghiệp rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển.

Việc xác định vốn của các công ty chỉ mới căn cứ vào giá trị tài sản cố định và vốn lưu động, trong khi đó tài sản lớn nhất của các đơn vị lâm nghiệp là rừng tự nhiên, rừng trồng, vườn cây lâu năm… (do chưa xác định được giá trị nên chưa được tính vào vốn). Do vậy, các doanh nghiệp chuyển đổi từ các lâm trường quốc doanh sang công ty TNHH một thành viên gặp khó khăn trong việc đăng ký kinh doanh, ảnh hưởng đến chất lượng chuyển đổi, công tác quản lý tài sản, tài chính của các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi.

Cũng do chưa xác định được giá trị rừng nên các doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong việc giao khoán rừng, vay vốn khi có yêu cầu thế chấp tài sản cho các ngân hàng thương mại. Một số công ty lâm nghiệp vay vốn tín dụng đầu tư vào trồng rừng, trồng cây công nghiệp, với chu kỳ sản xuất từ 5 đến 10 năm, nhưng hiện nay, các ngân hàng vẫn thu tiền lãi vay vốn theo tháng là không phù hợp…

Để các công ty lâm nghiệp phát triển bền vững, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên kiến nghị các địa phương, các ngành chức năng cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ thực hiện việc đo đạc, cắm mốc ranh giới đối với diện tích đất quy hoạch giao cho công ty, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai.

Nhà nước hỗ trợ kinh phí xây dựng phương án quản lý rừng bền vững, xây dựng các ranh giới, mốc của các lô, khoảnh, tiểu khu, phân trường, hệ thống các đường ranh giới, đường trục của các công ty lâm nghiệp. Toàn bộ diện tích đất rừng sản xuất phải chuyển sang chế độ thuê đất theo Luật Đất đai, cho phép các công ty có đủ năng lực khai thác gỗ theo phương án quản lý rừng bền vững (đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phê duyệt, UBND tỉnh đã thẩm định).

Sau khi được cấp phép khai thác, các công ty được chủ động tổ chức khai thác, không sử dụng phương pháp đấu thầu mua bán cây đứng. Số tiền thu được sau khi trừ các khoản chi phí hợp lý, nộp ngân sách Nhà nước theo quy định, số tiền còn lại công ty được sử dụng vào việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng theo kế hoạch và dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Nghiên cứu, thống nhất phương pháp, thực hiện kiểm kê, định giá lại tài sản của các công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp, trong đó có tài sản là rừng cây đứng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nguồn thu hợp pháp khác để bảo vệ và tái tạo lại rừng, phát triển rừng bền vững.