Môi trường bị ô nhiễm nặng

ThienNhien.Net – Tài nguyên bị suy thoái, cạn kiệt; đa dạng sinh học bị suy giảm mạnh; biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, khó lường… Môi trường tự nhiên Việt Nam đang diễn biến theo hướng phức tạp

Đó là bức tranh tổng quan về những thách thức hiện tại và tương lai đối với môi trường nước ta vừa được Bộ Tài nguyên – Môi trường (TN-MT) công bố thông qua Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Đất, nước, không khí đều ô nhiễm

Theo Bộ TN-MT, mặc dù ngân sách chi cho công tác bảo vệ môi trường khoảng 6.590 tỉ đồng/năm và tổng huy động vốn ODA khoảng 3,2 tỉ USD (trong đó 2,4 tỉ USD là vốn vay) nhưng việc kiểm soát, phòng ngừa ô nhiễm chưa được thực hiện một cách hiệu quả, tỉ lệ các cơ sở gây ô nhiễm ngày càng nhiều dẫn đến mức độ ô nhiễm gia tăng ở nhiều khu vực.

Tài nguyên đất ở nông thôn bị suy thoái do hóa chất sử dụng trong nông nghiệp (tổng lượng phân bón vô cơ sử dụng trong canh tác nông nghiệp khoảng 2,5-3 triệu tấn/năm, trong đó 70% cây trồng không sử dụng được, thải ra môi trường), còn tại các đô thị là do sản xuất, sinh hoạt (chỉ 60% KCN có hệ thống xử lý nước thải; nước thải sinh hoạt của các khu dân cư hầu hết không được xử lý, xả trực tiếp ra môi trường).

Đất ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên bị xói mòn khoảng 34-150 tấn/ha/năm, đất ở ven biển miền Trung ảnh hưởng sa mạc hóa, ĐBSCL đối mặt với hiện tượng phèn hóa, xâm nhập mặn.

Nước mặt đang suy thoái và ô nhiễm nghiêm trọng. Các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên đã khai thác 50% lưu lượng dòng chảy trong khi giới hạn cho phép chỉ 30%. Các hồ, ao, kênh, mương chảy qua các TP lớn đều bị ô nhiễm nghiêm trọng, thậm chí trở thành nơi chứa nước thải. Tại 3 lưu vực lớn: sông Nhuệ – Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai, chất lượng nước mặt quan trắc qua các năm đều không đạt quy chuẩn.

Chất lượng không khí cũng ngày càng suy giảm, đặc biệt tại các TP lớn như Hà Nội và TPHCM, nồng độ bụi tổng và bụi mịn vượt quy chuẩn cho phép rất nhiều lần.

Nước thải sinh hoạt chủ yếu được thải ra môi trường (Ảnh: ThienNhien.Net)
Nước thải sinh hoạt chủ yếu được thải trực tiếp ra môi trường (Ảnh: ThienNhien.Net)

Cũng theo Bộ TN-MT, tình trạng suy giảm về loài đang ở mức báo động. Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cảnh báo nếu năm 1996 chỉ có 25 loài của Việt Nam ở mức nguy cấp thì đến năm 2010, con số này đã tăng lên 47 loài.

Nhiều loài bị đe dọa không cao trên quy mô toàn cầu nhưng rất nguy cấp tại Việt Nam (ví dụ như hạc cổ trắng); nhiều loài thực vật trước đây chỉ xếp ở hàng sắp nguy cấp thì nay đã xếp vào hàng nguy cấp (hoàng đàn, tam thất hoàng, bách vàng…).

Nguyên nhân do diện tích hệ sinh thái tự nhiên tiếp tục bị thu hẹp mạnh, đặc biệt là hệ sinh thái đất ngập nước, núi đá vôi, bãi bồi cửa sông ven biển…, làm mất nguồn cung cấp nước ngầm, nơi sinh sản, phát triển, cư trú của các loài sinh vật.

Độ che phủ rừng đạt 40% diện tích, diện tích rừng tăng nhưng chất lượng rừng giảm. Theo báo cáo hiện trạng rừng quốc gia năm 2011 được Bộ NN-PTNT công bố vào tháng 9-2012, tổng diện tích rừng tăng 127.000 ha so với năm 2010 nhưng rừng tự nhiên tiếp tục giảm 20.000 ha, diện tích rừng nguyên sinh chỉ còn khoảng 0,57 triệu ha, tập trung trong các rừng phòng hộ và khu bảo tồn.

Rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn vẫn đứng trước nguy cơ bị chuyển đổi mục đích phục vụ cho khai thác khoáng sản, phát triển thủy điện.

Mất dần rừng ngập mặn

Diện tích rừng ngập mặn chỉ còn 160.000 ha, giảm hơn 50% so với năm 1943. Hệ thống đê biển cả nước dài 2.483 km nhưng 55% chiều dài đó đã không còn rừng ngập mặn bảo vệ. Điều này vừa giảm khả năng chống chịu thiên tai vừa mất cân bằng hệ sinh thái vùng ven biển.

Một nguy cơ khác đe dọa đa dạng sinh học của Việt Nam là sự gia tăng nhiệt độ. Theo cảnh báo của các tổ chức quốc tế, 50% các loài động – thực vật có nguy cơ tuyệt chủng nếu đến năm 2050, nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1oC- 6,4oC.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011- 2020 đặt ra mục tiêu cụ thể về môi trường: tỉ lệ che phủ rừng đạt 45%, hầu hết dân số đều được sử dụng nước sạch, 80% cơ sở đạt tiêu chuẩn về môi trường, 100% cụm công nghiệp – KCN-KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải rắn nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý.