Chiến dịch bão táp của Paul Watson (Phần II) – Lùng bắt kẻ thù của biển cả

Khi các tàu của Hải đội của Thần Biển được neo liền lại với nhau tại Biển Ross, Watson đứng trên boong tàu Farley và quan sát đội thủy thủ của mình chuyển thiết bị sang tàu Hunter, một chiếc tàu tuần tra của ngư dân Scotland được đóng vào năm 1975.

Chiến dịch bão táp của Paul Watson nhằm cứu vãn đại dương (Phần 1)

Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd, là tổ chức có ngân sách hàng năm khoảng hai triệu đôla, phải trả lương cho một đội ngũ nhân viên gồm 14 người. Watson cam kết giữ cho tổ chức của mình ở quy mô nhỏ, và thấy không cần thiết phải chi tiền cho hoạt động gây quỹ hay tuyển mộ. Ông quyên tiền bằng việc giảng dạy và quảng bá công việc của Hiệp hội trên Internet và bằng cách trực tiếp kêu gọi các mạnh thường quân, thường là các nhân vật nổi tiếng. Ông hầu như không gặp phiền toái gì khi trưng dụng những tình nguyện viên vào làm trên những chiếc tàu của mình.

Tàu Farley đang được một nhân viên dày dạn kinh nghiệm, một kỹ sư cơ điện 41 tuổi đến từ Florida, tên là Pedro Monteiro, dỡ bỏ các thiết bị định vị thừa: một bộ điều kiển rađa, một hệ thống định vị toàn cầu. Tại boong chính, các thành viên đội thủy thủ đang dùng cần cẩu để chuyển một vài tấn dầm thép sang chiếc tàu kia. Những thanh thép này sẽ được sử dụng để lắp ráp thành sàn tàu Hunter, và những tình nguyên viên đang mang mặt nạ và găng tay của thợ hàn bắt đầu lắp gá ngay lập tức. Trên một chiếc boong tương tự tại đuôi tàu Farley, dưới một miếng vải dầu màu xám, trực thăng Hughes 300C đang chờ sẵn để tiến hành việc khôi phục.

Watson trước đây cũng đã từng đi săn các đội tàu săn bắt cá voi của Nhật Bản tại địa điểm này: năm 2002, ông đã tìm kiếm nhiều tuần nhưng không thấy gì; năm 2005, ông đã đâm rách sườn hai chiếc tàu Nhật. Lần này, ông phải đối mặt với mới một tình thế khó khăn mới: vài giờ sau khi rời Australia, tàu Farley, là tàu được đăng ký ở Bêlixê, đã bị chính quyền ở đó tước cờ. (Chính phủ Nhật Bản đã cảnh báo với các nước khác về các hoạt động của Hiệp hội này). Không có cờ, một chiếc tàu bị coi là phi quốc gia, có nghĩa là nếu nó bị tấn công ngoài biển thì không một chính phủ nào đứng ra bảo vệ nó. Trên thực tế, tàu Farley đã trở thành một chiếc tàu ngoài vòng pháp luật – bất ngờ là điều này được đội thủy thủ trên tàu tán thành nhiệt tình.

Các tình nguyện viên của Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd có xu hướng chia sẻ nỗi tức giận của Watson với hệ thống luật pháp của thế giới văn minh, không chỉ bởi vì sự bành trướng không ngừng của nó ra thế giới tự nhiên mà còn bởi vì nhiều thỏa hiệp liên quan đến cuộc sống trên đất liền. Watson đã có lần viết: “Không một từ ngữ nào có thể miêu tả được sự giải phóng cá nhân mà việc hướng ra biển đã trao tặng cho tôi. Trong cái thế giới của biển cả này, không một ai phải chịu những chỉ thị hà khắc của bộ máy quan liêu xã hội”.

Từ mũi tàu, chiếc tàu này căng một lá cờ của Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd, một phiên bản của chiếc Jolly Roger có vẽ một chiếc đinh ba được cắt chéo bởi một chiếc gậy chăn cừu. Watson nói đùa với đội thủy thủ của mình rằng: “Bây giờ các cậu đang ở trên một chiếc tàu hải tặc”.

Ở những vùng biển xa, mối đe dọa lớn nhất mà tàu Farley có thể gặp là do chính bản thân nó. Kể từ năm 2002, nó suýt chìm ba lần. Vào hai lần khác, các thợ lặn đã phải vá những lỗ thủng vỏ tàu bằng các cọc gỗ để giữ cho tàu nổi trên mặt nước. “Thật may là chúng tôi không gặp bão”, một thành viên đội thủy thủ nhớ lại. “Anh không thể đưa thợ lặn xuống dưới khi có những đợt sóng động cao năm mét”.

Tàu Farley có tốc độ tối đa là 10 hải lý/giờ, không thể sánh được với bất cứ tàu nào trong số các tàu Nhật. Tàu Hunter chạy nhanh hơn nhiều, nó có nhiệm vụ cản các tàu săn bắt cá voi lại cho đến khi tàu Farley bắt kịp – giả dụ là có thể tìm thấy được đội tàu đó. Viện nghiên cứu động vật biển có vú bắt cá voi trong phạm vi Khu bảo tồn động vật đại dương phía nam, rộng 50 triệu km2, được IWC quy định là khu bảo tồn. Với hai chiếc tàu và một trực thăng, Hải đội của Thần Biển khó mà kiểm soát được vùng biển này.

Sau nhiều tuần tìm kiếm ở các vùng biển xa, Watson nói rằng ông đã chuẩn bị để chỉ huy hải đội của mình quay về cảng. Các tàu của ông đang cạn nhiên liệu và tinh thần các tình nguyện viên bắt đầu bạc nhược. (“Mỗi ngày trôi qua, tâm trạng buồn nản lại tăng thêm một chút”, một thành viên hải đội nhớ lại). Sau đó, gần 4 giờ sáng ngày 9 tháng 2, bằng rađa, tàu Hunter đã định vị được một đội tàu đang di chuyển. Trên rađa chúng được hiển thị như những đốm sáng chuyển động với tốc độ 14,7 hải lý/giờ, nhanh hơn so với một tảng băng trôi.

Bầu trời đen đặc. Không khí lạnh lẽo. Thuyền trưởng tàu Hunter là Alex Cornelissen không thể nhìn xa hơn một vài chục mét từ buồng điều khiển của mình. Ông quyết định là trước khi thông báo cho Watson – lúc này đang ở trên tàu Farley, cách đó 25 dặm, ông cần phải có thêm thông tin. Ông hướng tàu tới đốm sáng gần nhất và ra lệnh cho trực thăng lần theo dấu vết đốm lớn nhất. Khi bình minh lên, bầu trời chuyển sang màu xanh sậm, và phi công của chiếc trực thăng nhìn thấy một chiếc tàu đang đi chuyển chầm chậm. Anh ta liên lạc bằng sóng vô tuyến với Cornelissen để nói rằng anh định vị được một chiếc tàu đánh bắt cá voi, và một thành viên hải đội trên đài chỉ huy tàu Hunter tuyên bố: “Chúng ta đã tìm thấy đội tàu này rồi”.

Chiếc tàu đó là Nisshin Maru, một gã khổng lồ trên biển. Nó dài hơn hai trăm feet, là tàu mà những người săn bắt cá voi vẫn quen gọi là “tàu nhà máy” – chiếc duy nhất thuộc loại này vẫn đang còn hoạt động. Những chiếc tàu khác giao nộp sản phẩm đánh bắt được cho tàu Nisshin Maru để xả thịt, đóng gói, xử lý đông lạnh và nghiên cứu.

Đối với các nhà hoạt động bảo tồn, tàu này đại diện cho mọi điều sai trái trong hoạt động săn cá voi hiện đại: sự tàn sát được cơ giới hóa trên quy mô lớn. Các hải đội của tổ chức Hòa bình xanh thường đến vùng Nam Băng Dương để phản đối và thu thập tài liệu về đội tàu này. Viện nghiên cứu động vật biển có vú đã cho sơn từ “nghiên cứu” dọc thân tàu; từ này rõ ràng là một khẩu hiệu, nhưng đối với Hải đội của Thần Biển thì nó giống như một lời chế nhạo.

Khoảng 6h sáng, tàu Hunter đã chạy dọc theo mạn tàu Nisshin Maru. Chiếc tàu săn bắt cá voi kéo còi và triển khai hệ thống súng đại bác sử dụng trên mặt nước, có hoả lực rất mạnh. Hai chiếc tàu chuẩn bị đâm vào nhau, nhưng Watson đã chỉ thị cho Cornelissen chỉ làm chậm chiếc tàu đó lại thôi, chứ không đâm vào nó. Trên boong tàu, các thành viên hải đội tàu Hunter mặc đồng phục đen, đeo mặt nạ, bắt đầu ném các hộp nhỏ đựng axít butyric – một hợp chất tương đối vô hại ngửi giống như là mùi bơ thối – và bom khói lên boong tàu Nisshin Maru.

Tại mớn nước, những chiếc thuyền gắn máy nhỏ được gọi là Zodiac lượn vòng quanh chiếc tàu săn bắt cá voi. Phần lớn các thuyền Zodiac đến từ tàu Farley, lúc đó vẫn chưa xuất hiện trong tầm nhìn. Các thành viên hải đội mang theo camera và các cuộn dây lưới dài với hy vọng làm vướng chân vịt tàu Nisshin Maru. Khi cuộc đối đầu đang tiếp diễn, nhiệt độ lại giảm đi. Sóng biển dâng cao, và băng do gió biển đẩy tới đã xô mạnh vào mạn tàu

Một trong những chiếc Zodiac của tàu Farley đã biến mất trong cơn bão. Nhóm thủy thủ của nó gồm Karl Neilsen và John Gravois không trả lời tín hiệu vô tuyến. Watson đứng dựa lưng vào bức tường đen của buồng chỉ huy, gần một chiếc vô lăng cũ, và cắn chặt môi. “Điều gì vậy?”, ông nói bằng một giọng mất tin tưởng với Monteiro. Ám chỉ đến Neilsen, người ngồi trên chiếc Zodiac đó, ông hỏi: “Anh ta không có pháo sáng phải không? Tôi không hiểu sao anh ta lại không có pháo sáng”.

Khi tàu Farley chuẩn bị tìm kiếm chiếc thuyền mất tích, Watson tìm được mấy quả pháo sáng và bắn lên không trung. Ánh sáng của chúng chưa đủ để xua tan làn sương mù và tuyết. Ông phải đối mặt với một quyết định khó khăn. Cách đó vài dặm, tàu Hunter đang bố ráp tàu Nisshin Maru, và nếu ông ra lệnh cho nó cùng tham gia vào cuộc tìm kiếm chiếc Zodiac mất tích, thì nó sẽ không thể đuổi kịp chiếc tàu săn cá voi nữa. Ông đã quyết định tàu Hunter phải ở lại vị trí chiến đấu.

Ông nhớ lại: “Rất nhiều người sửng sốt. Nhưng vấn đề là tôi không muốn chiếc tàu Nhật trốn thoát”. Thuyền trưởng Cornelissen đang chật vật với việc cố gắng bắt kịp tàu Nisshin Maru, có tốc độ nhanh hơn tàu Hunter tại những vùng biển động, và sau một vài giờ, ông quyết định không tuân lệnh Watson mà quay lại tham gia vào cuộc tìm kiếm. Watson đã mất thời gian liên lạc trên sóng vô tuyến với thuyền trưởng tàu Nisshin Maru nhờ trợ giúp.

Điều mà Watson không biết là chiếc Zodiac mất tích đã bị hỏng nặng. Nó đã cũ và không được bảo quản tốt, nên khi bị sóng biển quật liên hồi vỏ của nó đã bị rạn. Khi nước tràn vào, nó mất tín hiệuvô tuyến và GPS. Neilsen và Gravois tụt lại phía sau các thuyền khác, và cuối cùng lạc trong cơn bão. Họ mặc bộ đồ nước, có chức năng thích nghi với cái giá lạnh, nhưng họ vẫn bị lạnh, và nếu bị chìm họ sẽ khó lòng sống sót . Họ lái chiếc Zodiac hướng tới một tảng băng và đỗ cạnh đó. Họ không thể trèo ra vì tảng băng gần như dựng đứng. Họ đã phải ôm nhau cho ấm người.

Sau khoảng 4 đến 5 giờ đồng hồ, chiếc Zodiac bắt đầu trôi xa khỏi tảng băng. Gravois đối mặt với khả năng bị chết cóng và bị chìm xuống đáy đại dương. Anh đã nhìn thấy và nghe thấy những ảo ảnh: những chiếc tàu ma, một chiếc trực thăng không có thật. Neilsen đã làm mọi cách để giữ cho chiếc Zodiac không trôi quá xa vị trí ban đầu của nó. Cuối cùng, khoảng 8 đến 9 tiếng đồng hồ sau đó, tàu Farley hiện ra giữa màn sương dày đặc và cứu họ thoát chết. Chiếc Nisshin Maru, khi đó cũng tham gia tìm kiếm, đã trốn thoát nhờ vào cơn bão Nam Cực.

Watson không có lựa chọn nào khác ngoài việc ra lệnh cho Hải đội Thần Biển quay về Australia. Nhiên liệu và nhu yếu phẩm gần như đã cạn kiệt. Một số thành viên hải đội rất bức xúc trước việc ông đã phải mất khá nhiều thời gian để gọi một cú điện thoại cầu cứu. Những người khác vẫn còn rùng mình khi nhớ lại cuộc chạm trán với chiếc tàu nhà máy, sẵn sàng chấp nhận những rủi ro về tính mạng để cứu động vật vì đó là nhân tố quan trọng nhất trong sứ mệnh của Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd.

Vào ngày 12 tháng 2, khi Hải đội Thần Biển chuẩn bị rời Nam Cực, tàu Hunter lại phát hiện được một chiếc tàu săn cá voi khác của Nhật Bản, nằm ở phía đông bắc Quần đảo Balleny. Chiếc tàu mang tên Kaiko Maru này được những người săn bắt cá voi gọi là một tàu chỉ điểm; nó tìm kiếm các đàn cá voi gần một vùng băng nổi. Tàu Hunter nhanh chóng tiếp cận nó, và trợ lý thứ nhất của Cornelissen liên lạc bằng sóng vo tuyến với thuyền trưởng tàu Nhật để nói rằng: “Các vị được xác định là một tàu săn cá voi bất hợp pháp. Chúng tôi khuyên các vị nên rời khỏi Khu bảo tồn cá voi Nam Băng Dương ngay lập tức”.

Khi tàu Hunter và tàu Kaiko Maru vượt qua những đám băng nổi, chúng va mạnh vào nhau. Tàu Hunter tròng trành, nghiêng đi một góc gần 30 độ, và lao vào một tảng băng; cuộc va chạm đã gây ra một số thiệt hại cho cấu trúc vỏ tàu. Tàu Kaiko Maru phát đi một đoạn băng thu sẵn, bằng tiếng Anh, qua một chiếc loa ở đài chỉ huy: “Chú ý! Chú ý! Đây là thuyền trưởng tàu Kaiko Maru. Ngừng ngay hành động phá hoại của các vị lại. Nếu các vị dám bước lên tàu này, các vị sẽ bị quản thúc và giữ lại như những kẻ xâm nhập bất hợp pháp theo luật pháp Nhật Bản”.

Các thành viên hải đội thuộc Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd ném bom khói lên boong tàu Kaiko Maru, và ngay sau đó một đám mây màu cam bao trùm lên tàu. Các sợi lưới dây được dàn ra, và một chiếc cuốn chặt vào bánh lái tàu Kaiko Maru. Chiếc trực thăng của Hiệp hội bảo tồn Sea Shepherd, trên đó có một đội ghi hình, đã tiến hành những cuộc bay rất thấp.

Khi tàu Farley đến, Watson liên lạc với tàu Hunter và nói: “Hãy xem chúng ta có thể giữ lại họ không”. Ông lệnh cho tàu Farley tiến đến hông bên kia của chiếc tàu săn bắt cá voi. Thuyền trưởng tàu Kaiko Maru, trong một nỗ lực nhằm giải thoát con tàu của mình, đã va và làm xước thân tàu Hunter. Thuyền trưởng tàu Kaiko Maru đã gửi đi một cuộc gọi cấp cứu, và phàn nàn rằng bánh lái tàu ông ta đang rung lên một cách bất thường. Sau đó, do không còn lựa chọn nào khác, ông bắt đầu chấp thuận mệnh lệnh từ hải đội của Watson, khi đó đã dồn được tàu của ông ta vào một góc rất hẹp.