Vạn đò sông Hương: Nét đẹp và “vết thương”

Đến thời điểm này, riêng TP Huế đã có hơn 1.000 hộ dân vạn đò với khoảng 7.000 khẩu đang sống trên sông Hương. Không thể phủ nhận cùng với tiến trình lịch sử, vạn đò và cư dân vạn đò là một phần của lịch sử, làm nên nét đẹp cho sông Hương và văn hoá Huế. Tuy nhiên, đằng sau “nét đẹp” đó là trùng trùng những “vết thương” xã hội nhức nhối.

Vạn đò sông Hương

Nghèo đói, thất học, tệ nạn xã hội phát sinh… là hậu quả của kiếp sống lênh đênh, và “lên bờ” là nhu cầu, ước mơ của bao hộ dân vạn đò, cũng là trách nhiệm đòi hỏi những người quản lý phải nỗ lực cố gắng.

Một phần của văn hoá Huế

Vạn đò trên sông Hương có một lịch sử rất lâu đời! Điều này ai cũng biết nhưng lâu như thế nào, nguồn gốc ra sao thì chắc là không nhiều người tường tận. Riêng với người viết, mỗi lần có cơ hội là đi dò hỏi những người cao tuổi ở khắp các vạn đò về tổ tiên của họ, nhưng lần nào cũng chỉ nhận được một câu trả lời rằng: “Bầy tui sống ở đây mấy đời rồi, nhưng chịu không biết được ông tổ khai canh từ mô tới !”.

Sử sách cũng chưa thấy ghi cụ thể chuyện này, nên các lý giải đều theo kiểu “hình như”, và trong luận văn tiến sĩ về đề tài vạn đò trên sông Hương, xuất bản trước năm 1975, tác giả Phan Hoàng Quỹ đã lý giải theo kiểu giả định có lý hơn cả.

Theo ông Quý thì có thể, việc thành lập các vạn đò trên sông Hương được manh nha từ thời Vua Minh Mạng đến thời Vua Tự Đức. Thời đó có thể các trục lộ trên cạn chưa khai thông, việc di chuyển từ vùng này sang vùng khác, cũng như việc vận chuyển quân lương, khí giới của triều đình nhà Nguyễn phải nhờ vào thủy lộ, cho nên triều đình mới cho lập các vạn đò ở hai bên sông Đông Ba và sông Hương để trưng dụng khi cần.

Tiếp đó là những năm tháng chiến tranh triền miên, khiến sự yên bình ở các xóm làng ở ven sông, phá bị đe dọa. Nên họ góp của, đưa nhau xuống những chiếc đò nghề để ngược về thành phố, tụ tập hai bên bờ sông để buôn bán, làm thuê, và ở luôn cho tới bây giờ…

Dân vạn đò trên sông Hương sống theo vạn (cụm dân cư), mỗi vạn làm một nghề khác nhau như đánh cá, khai thác cát sạn, lặn tìm cổ vật, làm mướn, đạp xíchlô, lượm chai bao, buôn bán… Đặc biệt, họ có một đời sống cộng đồng, ngôn ngữ, đời sống văn hóa, tín ngưỡng, nghi lễ riêng, mang đậm dấu ấn của đời sống sông nước so với các cư dân sống trên cạn.

Nhắc đến Huế là ngay lập tức người ta nghĩ đến sông Hương, và hình ảnh những con đò với những làn điệu dân ca, với câu hò Huế dài như lịch sử. Trước khi trở thành một sản phẩm du lịch, những đêm trăng nghe ca Huế bằng thuyền trên sông Hương là một thú chơi tao nhã đặc quyền của giới quý tộc triều Nguyễn.

Trước khi hai chữ “ngủ đò” trên sông Hương trở nên dung tục, một thời nó là một trong những sinh hoạt văn hóa lý thú kiểu như hát ả đào của người Hà Thành mấy chục năm trước…

Những “vết thương”…

Hiện dân vạn đò sống tập trung ở 7 phường thuộc TP.Huế, trong đó đông nhất là các phường Phú Hiệp, Phú Bình, Vĩ Dạ. Phần lớn các hộ dân bây giờ không còn sống trên thuyền như ngày xưa mà sống trên những chiếc bè, được kết bằng những tấm phao mục nát và tạm bợ, kéo dài dọc các bờ sông.

Các phao này tuy có rộng hơn thuyền một chút (khoảng 5-7m2), tuy nhiên, do phần lớn các hộ dân vạn đò đều sinh từ 5-7 con, thậm chí 10, 12 con, nên chừng đó diện tích vẫn không thấm vào đâu so với nhu cầu về không gian, dẫn đến cảnh các gia đình sống lúc nhúc, chen chúc nhau rất tội nghiệp.

Đến với bất kỳ một vạn đò nào ở thành phố Huế, chắc chắn ấn tượng đầu tiên đập vào mắt là sự xác xơ, nhếch nhác, và môi trường sống, nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng do sống tập trung đông người, nhưng rác và chất thải sinh hoạt lại được “xử lý” ngay tại chỗ! Đáng sợ hơn, một số vạn, vì không tiếp cận được với nguồn nước sạch trên bờ nên người dân đã dùng chính nguồn nước bị ô nhiễm đó để uống, tắm giặt, vệ sinh…

Hình ảnh của người dân vạn đò có sự tương phản đến đau lòng với sự hào nhoáng, sung túc của những cư dân thành phố sống trên bờ. Trong suốt gần 3 giờ đồng hồ lang thang ở vạn đò phường Phú Bình, chúng tôi nhiều lần suýt nôn vì mùi xú uế bốc ra từ dưới dòng nước ngòm đen, từ những đống nilon mà người dân ở đây đi nhặt về ở những đống rác, sau đó phân loại, giặt rửa rồi đi bán lại. Tuy nhiên, người dân ở đây lại coi như không có chuyện gì lạ.

Chị Hồ Thu – một người dân ở đây – nói: “Thời gian đầu mới làm nghề ni cũng thấy hôi, nhưng làm miết năm ni sang năm khác, chừ mũi cũng quen, không còn nghe hôi nữa”. Anh Lê Mãi – người dân khác – bổ sung: “Mà chừ có nghe hôi cũng cắn răng mà làm để ngày kiếm chục, mười lăm ngàn nuôi con, chứ chừ bầy tui đây không làm nghề nhặt rác như ri thì biết làm nghề chi?”.

Không chỉ môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, hầu hết các vạn đò đều sống trong tình trạng rất khó khăn, thiếu thốn, vô cùng lạc hậu và mù mịt tương lai. Bao đời nay, tất cả họ đều xoay trong vòng quay không lối thoát: Nghèo đói – sinh nhiều con – nghèo đói, thất học, thất nghiệp, tệ nạn xã hội – nghèo đói…

Người lớn thì thôi đã đành, nhưng gần như tất cả trẻ em – những mầm non của tương lai – đều trong cảnh không được đi học và bỏ học giữa chừng để kiếm sống, thậm chí nhiều trẻ đã lớn nhưng còn chưa được bố mẹ làm cho giấy khai sinh; cũng như được hưởng thụ những nhu cầu, sinh hoạt… tối thiểu như bao đứa trẻ khác.

Và bất lực…

Lên bờ là nhu cầu rất bức xúc, là ước mơ bao đời với không chỉ các hộ dân vạn đò, mà còn của người dân trên cạn và chính quyền địa phương bao nhiêu năm nay.

“Không bàn đến chuyện nghèo đói, thất học, mà hàng năm, chỉ riêng mùa mưa bão, mỗi khi nghe tin lũ về, bão vô là dân tui đây trắng đêm thấp thỏm sợ chết vì lụt bão càng ngày càng hung dữ, mà thuyền, bè thì càng ngày càng rệu rã”, anh Nguyễn La – một người dân vạn đò ở phường Vĩ Dạ – tâm sự.

Ngược lại, chính quyền địa phương cũng thấp thỏm lo sợ và khổ không kém khi để bảo đảm an toàn tính mạng cho dân, TP Huế thường xuyên phải huy động gần như toàn bộ hệ thống chính quyền để di dời một lúc hàng ngàn người dân đến những nơi an toàn.

Thực tế thì trong thời gian qua, các vạn đò trên sông Hương đã được sự giúp đỡ rất lớn từ địa phương và các tổ chức phi chính phủ thông qua các chương trình tạo việc làm, xóa mù, nước sạch, sinh đẻ kế hoạch hoá…

Tuy nhiên đó mới chỉ là những dự án nhỏ lẻ, được thực hiện theo kiểu gió bên nào che bên đó, nên hiệu quả thì có, nhưng cũng chỉ ở những phạm vi nhỏ và không thể nào giải quyết được những vấn đề mang tính căn bản.

Nhiều năm nay, năm nào chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế và TP.Huế cũng tổ chức họp bàn, rồi nghị quyết, văn bản… đã không biết bao nhiều lần nhắc đến quyết tâm phải tái định cư, đưa toàn bộ người dân vạn đò ở sông Hương lên bờ nhằm tạo cho họ cuộc sống bền vững, ổn định, cũng như trả lại sự sạch đẹp cho sông Hương và cảnh quan TP. Tuy nhiên mọi chuyện vẫn còn nằm ở trên giấy bởi một nguyên nhân duy nhất là chưa có kinh phí.