Việt Nam chịu ảnh hưởng ra sao bởi biến đổi khí hậu?

Các nhà khoa học Việt Nam đang lúng túng trong việc lựa chọn kịch bản biến đổi khí hậu nhằm xây dựng kế hoạch ứng phó với vấn đề này ở Việt Nam…

Nhằm ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã nhanh chóng thành lập ban chỉ đạo “Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu” và lập đề cương xin ý kiến các nhà khoa học xây dựng chương trình hành động.

Tuy nhiên, tại Hội thảo “Hướng tới Chương trình hành động của ngành NN&PTNT nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu” do Bộ NN&PTNT tổ chức tại Hà Nội vào ngày 11/01, các nhà khoa học đã rất lúng túng và có nhiều ý kiến khác nhau giữa hai kịch bản dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB) mực nước biển dâng là 1m và của Ủy ban liên chính phủ về thay đổi khí hậu (IPCC) là… 69cm!

Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Việt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất đối với biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1 mét ở VN sẽ sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội GDP. Nếu mực nước biển dâng lên là 3-5m thì điều này đồng nghĩa với “có thể xảy ra thảm họa” ở Việt Nam.

Cần xây dựng một kịch bản cho Việt Nam

Để xây dựng được một chương trình hành động chuẩn xác, tạo nền tảng đi đúng hướng, ông Hoàng Mạnh Hòa, điều phối viên biến đổi khí hậu (Vụ Hợp tác quốc tế) – Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho rằng: “Chúng ta cần phải xây dựng một kịch bản cho Việt Nam“.

Ông tỏ ra băn khoăn với các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới hiện nay. Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, mực nước biển dâng là 1m, nhưng kết quả nghiên cứu của IPCC mực nước biển dâng là… 69cm kèm theo trong điều kiện băng tan không đột biến (!).  

Vậy câu hỏi đặt ra là nếu băng tan ở các vùng cực Nam hay cực Bắc của Trái đất, mực nước biển dâng cao có nơi lên tới 5-10m, Việt Nam sẽ ra sao? Trong bối cảnh nào thì băng tan đột biến và con số là bao nhiêu thì chúng ta phải trả lời và chúng ta phải xây dựng kịch bản cho Việt Nam.

Bởi vì, theo ông Hòa, vấn đề khí hậu và biến đổi khí hậu ở mỗi quốc gia lại có diễn biến khác nhau. Hơn nữa, vấn đề biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là của ngành nông nghiệp mà nó còn liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nữa.

Do vậy, Việt Nam phải xây dựng kịch bản chi tiết cho từng thập niên: năm 2020, 2030, 2050, 2070… và đến năm 2100. Từ đó, các nhà hoạch định chính sách, các bộ, ngành mới có thể xây dựng chương trình hành động đúng.

Tuy nhiên, TS Hoàng Minh Hiền – Phó Giám đốc Trung tâm Quản lý, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai – Bộ NN&PTNT cho rằng chúng ta cần phải tham khảo các kịch bản khác nhau, đặc biệt là kịch bản của Ngân hàng Thế giới.  

TS Hiền lý giải, có thể các nhà khoa học trên thế giới đưa ra các con số khác nhau, họ có những hướng giải quyết khác nhau. Kịch bản chuẩn hiện nay mà chúng ta có thể theo là kịch bản của IPCC. Tuy nhiên, các nhà khoa học VN của chúng ta phải vào cuộc bởi vì nếu mực nước biển dâng 1m hay 5m thì VN vẫn là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nhất.

Theo TS Hiền, khi Trái đất nóng lên, băng ở đỉnh núi Himalaya tan và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ là nơi hứng chịu mực nước ấy, hay Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) sẽ hứng chịu mực nước của dãy núi Vân Nam (Trung Quốc). Khi đó, nếu chúng ta theo kịch bản của IPCC thì ĐBSH và ĐBSCL sẽ phải hứng chịu thiên tai rất nhiều.

Do vậy, các nhà khoa học phải chỉ rõ vùng nào của Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của băng tan, phân tích cụ thể diện tích vùng bị ngập, vùng phải di chuyển và ảnh hưởng đến các vùng khác chưa được đề cập tới. 

Từ đó, Việt Nam mới có thể xây dựng được kế hoạch hành động và khai thác nguồn vốn cũng như sự hỗ trợ trong và ngoài nước.

 Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Hồng:
biendoikhihau
Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSH như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM)
 Bản đồ các vùng chịu ảnh hưởng nước biển dâng ở Đồng bằng sông Cửu Long:  

biendoikhihau
Theo dự báo, nhiều vùng thuộc ĐBSCL như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau… sẽ ngập chìm từ 2-4m trong vòng 100 năm tới (Nguồn: ICEM)


Trong khi đó, KS Nguyễn Ty Niên – nguyên Cục trưởng Cục Đê điều Phòng chống lụt bão – Bộ NN&PTNT: “Còn quá sớm để chúng ta xây dựng tầm nhìn đối với ngành nông nghiệp”.

Theo ông, biến đổi khí hậu là vấn đề gặm nhấm, mỗi năm, nhiệt độ và mực nước biển tăng dần lên. Do vậy, cách tiếp cận của chúng ta là tiệm cận dần với những biến đổi. Chúng ta không thể hành động sớm cũng như quá muộn mà chúng ta phải hành động đúng lúc, hành động phù hợp và thích ứng với nó.

Tháng 06/2008, sẽ trình Chính phủ…

Trước những ý kiến tranh luận khác nhau về kịch bản cũng như đưa ra các giải pháp xây dựng chương trình hành động, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Học cho biết: “Trong chỉ đạo của Bộ NN&PTNT đã xây dựng chương trình hành động với cả hai kịch bản dự báo của Ngân hàng Thế giới với mực nước biển dâng là 1m và của IPCC là 69cm. Mặc dù, còn rất nhiều ý kiến tranh cãi, nhưng chúng ta phải tiến hành hành động đúng như các khuyến cáo của Liên hợp quốc tại Hội nghị Bali”.

Thứ trưởng cho biết thêm: “Trong thời gian sắp tới, Ban chỉ đạo sẽ đưa ra định hướng cụ thể”.

Theo Thứ trưởng Học, cho dù là kịch bản nào thì vấn đề biến đổi khí hậu đã xảy ra và tác động mạnh mẽ đến đất nước chúng ta ở tất cả các ngành, đặc biệt là ngành sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, chúng ta đang quản lý 74% diện tích đất nông nghiệp, gần 80% người nông dân đang sinh sống ở vùng nông thôn và sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp. 

Do vậy, song song với việc nghiên cứu, xây dựng chương trình hành động, chúng ta vẫn tiếp tục tiến hành những việc liên quan đến giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu như: trồng rừng, sử dụng công nghệ sạch, vấn đề giảm khí thải vào không khí… 

Đồng thời, Thứ trưởng Học cũng yêu cầu các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu đưa ra các giải pháp cụ thể ví dụ như: đối với ngành thủy lợi, chúng ta phải xây dựng lại tất cả những quy trình, quy chuẩn, quy phạm về thiết kế…, đối với ngành nông nghiệp, chúng ta phải nghiên cứu giống cây có thể thích ứng với vùng ngập mặn và cho năng suất cao…

Liên quan đến kế hoạch thực hiện sắp tới, chị Nguyễn Phước Bình Thanh – Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan đưa ra ý kiến: “Chúng ta phải làm rõ tầm nhìn trong từng giai đoạn: 10 năm, 20 năm… Làm rõ hơn về cách tiếp cận trong khu vực, quốc gia không chỉ làm giảm thiểu mà cả vấn đề thích ứng, ngăn chặn… Cần có sự tham gia của Nhà nước và nhân dân cùng làm”. 

Còn theo ông Rolf Samuelsson – Đại sứ quán Thụy Điển thì: “Chúng ta cần quán triệt và kết hợp với nhau hơn nữa để giải quyết vấn đề này. Chính phủ phải là người đứng đầu trong việc phối hợp vấn đề này và đặt ra mục tiêu hành động cụ thể. Một vấn đề quan trọng nữa là chúng ta phải nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo và người dân. Chúng ta giáo dục cho con cháu chúng ta lãnh trách nhiệm này trong tương lai và không làm cho con cháu chúng ta hoảng sợ”.

Liên quan đến lộ trình thực hiện và kinh phí, Thứ trưởng Học cho biết: “Dự kiến, đến tháng 6 tới, Ban chỉ đạo sẽ hoàn thành báo cáo trình lên Bộ và Thủ tướng Chính phủ cùng với các vấn đề biến đổi khí hậu chung của cả nước. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ hình thành kinh phí và lộ trình thực hiện, trở thành chương trình hành động chung của cả nước”. 

Nội dung, nhiệm vụ đề cương Chương trình hành động giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu ngành NN&PTNT:  


 – Thiết lập hệ thống thông tin, website về biến đổi khí hậu (BĐKH).


– Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề, các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, thu thập, xử lý thông tin.


– Xây dựng Trung tâm lưu trữ BĐKH, triển khai thực hiện chương trình nghiên cứu về tác động của BĐKH, đề xuất các giải pháp thích ứng với BĐKH.


– Ứng dụng các công nghệ hiện đại trong sử dụng, bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên như rừng, đất, nước.


– Tiếp tục tiến hành rà soát, đối chiếu có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách của ngành.


– Xây dựng mới quy trình, quy phạm quản lý chuyên ngành, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng các hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn.


– Xây dựng cơ chế phối kết hợp giữa các bộ, ngành, Trung ương và địa phương, cơ chế quản lý các chương trình, dự án.


– Rà soát việc quy hoạch các hệ thống hạ tầng cơ sở nông nghiệp, nông thôn, các hệ thống canh tác sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hệ thống phòng chống giảm nhẹ thiên tai…


– Tổ chức các hoạt động kinh tế, chuyển giao công nghệ để bảo vệ, quản lý, phát triển và sử dụng tổng hợp các loại tài nguyên đất, nước, rừng. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giảm nhẹ tác động và thích ứng với biến đổi khí hậu.