Nợ nần đè nặng châu Á

Ngoài nợ do đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia đang tìm cách giảm tác động của lạm phát đối với người dân nhưng động thái này càng gây thêm sức ép lên nguồn lực tài chính đất nước.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang lo ngại về tình trạng nợ đang tăng ở châu Á do lạm phát và các điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Trả lời phỏng vấn đài CNBC hôm 27-7, ông Krishna Srinivasan, Giám đốc phụ trách khu vực châu Á – Thái Bình Dương của IMF, cho biết nhiều nước tại khu vực đang lún sâu vào nợ nần hoặc đối mặt rủi ro từ khoản nợ chồng chất và đây là điều IMF đang theo dõi sát. Một số cái tên đã được nhắc đến, như Maldives đang vật lộn với tỉ lệ nợ trên GDP ở mức cao (100% GDP) dù con số này đã giảm trong 2 năm qua.

Thê thảm hơn, Sri Lanka hiện không còn khả năng trả nợ nước ngoài và buộc phải đề nghị IMF hỗ trợ để đưa nước này thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi độc lập năm 1948. Ông Srinivasan không nói rõ Sri Lanka cần tiến hành những cải cách gì để hai bên đi đến thỏa thuận. Thay vào đó, theo Reuters, quan chức IMF cho rằng Sri Lanka nên trao đổi tích cực với Trung Quốc, một chủ nợ lớn, về vấn đề tái cơ cấu nợ. Dữ liệu của Viện Tài chính quốc tế (Mỹ) cho thấy quốc gia Nam Á này đang nợ Bắc Kinh khoảng 6,5 tỉ USD. Trong số chủ nợ của Sri Lanka còn có Ấn Độ và Nhật Bản.

Trang Nikkei Asia gần đây nhận định châu Á đang đối mặt một số thách thức mới 25 năm sau cuộc khủng hoảng năm 1997, trong đó có tình trạng giá lương thực và năng lượng tăng vọt do tác động của xung đột Nga – Ukraine. Ngoài nợ do đại dịch Covid-19, nhiều quốc gia đang cố gắng giảm tác động của lạm phát đối với người dân nhưng động thái này càng gây thêm sức ép lên nguồn lực tài chính đất nước. Trong khi đó, việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng mạnh lãi suất khiến dòng vốn chảy ra khỏi các nền kinh tế châu Á và gánh nặng nợ bằng đồng USD sẽ tăng lên ở một số nước.

Khung cảnh bên ngoài một trạm xăng ở thủ đô Colombo – Sri Lanka hôm 26-7. Quốc gia Nam Á này đang rơi vào khủng hoảng kinh tế và không thể trả nợ nước ngoài. (Ảnh: Reuters)

Nỗi lo về nợ cũng được nêu bật trong báo cáo mới nhất của Công ty Dịch vụ Tài chính Moody’s Analytics (Mỹ), trong đó cho thấy nợ chính phủ ở Đông Nam Á tiếp tục tăng trong năm 2021 dù mức tăng không cao như năm 2020. Theo Moody’s Analytics, trong đại dịch Covid-19, các nước Đông Nam Á đã nâng trần nợ và tăng chi tiêu để hỗ trợ nền kinh tế.

Đáng chú ý, Philippines đã giảm được nợ công xuống còn 39,6% GDP vào năm 2019 nhưng con số này đã tăng lên 63,5% GDP vào cuối quý I/2022. Theo tờ Philippine Star, giới chức nước này đã đặt mục tiêu giảm dần tỉ lệ này xuống còn 61,8% năm 2022; 61,3% năm 2023 và 52,5% vào năm 2028. Trong khi đó, nợ của Thái Lan tăng mạnh từ 41% GDP năm 2019 lên 60% GDP vào cuối năm 2021 và dự kiến đạt gần 62% GDP vào tháng 9-2022, theo ước tính của Bộ Tài chính nước này. Năm ngoái, nước này đã nâng trần nợ từ 60% lên 70% GDP.

Tại Malaysia, Bộ trưởng Tài chính Zafrul Abdul Aziz gần đây cho biết nợ chính phủ của nước này hiện là 63% GDP và con số này vẫn thấp hơn một số nước như Nhật Bản (263% GDP) và Singapore (133% GDP). Quan chức này khẳng định nợ của Malaysia vẫn trong tầm kiểm soát và nước này sẽ không sụp đổ về tài chính như Sri Lanka. Dù vậy, một số chuyên gia cảnh báo thảm họa kinh tế có thể xảy ra ở Malaysia nếu tỉ lệ nợ trên GDP vượt mức 90%.

Cũng theo báo cáo của Moody’s Analytics, nợ hộ gia đình tăng cao cũng là một vấn đề lớn tại Đông Nam Á. Nhiều nước đang đối mặt giá nhà đất tăng chóng mặt và tình trạng đầu cơ tiếp tục đẩy giá lên. Vì thế, không gì lạ khi Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO) gần đây nhấn mạnh tầm quan trọng của các giải pháp cho bài toán nợ công và tư gia tăng trong đại dịch Covid-19 tại khu vực.

Chủ tịch FED Jerome Powell tại cuộc họp báo hôm 27-7. (Ảnh: REUTERS)

FED tiếp tục ưu tiên chống lạm phát

Đối mặt sức ép từ lạm phát cao nhất trong 40 năm, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) hôm 27-7 quyết định tăng lãi suất cơ bản lên thêm 0,75 điểm % trong tháng thứ 2 liên tiếp, qua đó phạm vi lãi suất được nâng lên 2,25%-2,5%. Phát biểu sau cuộc họp kéo dài 2 ngày, Chủ tịch FED Jerome Powell cho biết bước đi tương tự có thể diễn ra trong cuộc họp tiếp theo dù điều này còn tùy thuộc vào dữ liệu kinh tế từ giờ cho đến đó. Theo dự báo đưa ra vào giữa tháng 6, các quan chức FED sẽ tăng lãi suất lên mức 3,4% trong năm nay và 3,8% trong năm 2023.

Trong khi nhiều người lo lắng nền kinh tế đang trên đà suy thoái, ông Powell nói riêng và FED nói chung đã bác bỏ suy nghĩ này khi cho rằng thị trường lao động đang mạnh mẽ cho phép nền kinh tế chịu được việc thắt chặt chính sách tiền tệ.

FED lần này tiếp tục cam kết đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu 2%, đồng thời khẳng định sẽ điều chỉnh chính sách nếu xuất hiện các rủi ro đe dọa việc đạt các mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ trong tháng 6-2022 tăng 9,1% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất kể từ tháng 11-1981. Trước làn sóng chỉ trích vì đánh giá sai và phản ứng chậm trước lạm phát cao, FED buộc phải tăng lãi suất để hạ nhiệt nền kinh tế, ngay cả khi điều này có nguy cơ dẫn đến suy thoái.

Anh Thư