Thương mại toàn cầu trước thách thức chuyển mình vì đại dịch COVID-19

Báo Jakarta Post số ra mới đây có đăng bài viết với tựa đề: “Thương mại toàn cầu thay đổi trước những tác động của đại dịch COVID-19”.

Người dân thực hiện giãn cách xã hội để phòng lây nhiễm COVID-19 tại một khu chợ ở Barcelona, Tây Ban Nha. Ảnh: THX/TTXVN

Nội dung bài viết nhận định sự bùng phát của đại dịch COVID-19 trên toàn thế giới đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế và sức khỏe toàn cầu, đồng thời đã định hình lại hệ thống thương mại và thị trường.

Trước khi dịch COVID-19 xảy ra, nền tảng thương mại toàn cầu đã bị tấn công bởi các biện pháp bảo hộ của một số quốc gia trong hai năm qua và các chính phủ đang bận rộn đưa ra các chiến lược để đối phó với sự không chắc chắn.

Đầu tháng 1/2020, Ngân hàng Thế giới (WB) lưu ý rằng hệ thống thương mại toàn cầu trị giá hơn 1.000 tỷ USD đã bị ảnh hưởng và đang tiếp tục giảm tốc, đáng chú ý là ở châu Âu và châu Á.

* “Cơn co thắt” của các chuỗi liên kết

Trong thời điểm hiện nay, điều quan trọng nhất phải làm là giải quyết cuộc khủng hoảng sức khỏe. Virus SARS-CoV-2 rất dễ lây lan.

Để đón đầu cuộc chiến, các chính phủ trên khắp thế giới đã áp đặt nhiều chính sách giãn cách xã hội nghiêm ngặt trong hầu hết các lĩnh vực. Những chính sách này đã trở thành chuẩn mực mới của sự tương tác xã hội và định hình lại cuộc sống.

Trong bối cảnh đó, những hạn chế đối với sự di chuyển của người dân đã buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa, gây ra tình trạng thất nghiệp, tiêu dùng giảm, dòng chảy hàng hóa và hoạt động sản xuất, phân phối bị gián đoạn. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự kiến thương mại toàn cầu sẽ giảm mạnh từ 13-32% trong năm 2020.

Các ngành có chuỗi liên kết giá trị phức tạp sẽ phải đối mặt với các “cơn co thắt” lớn hơn trước. Khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ngành công nghiệp ô tô và các sản phẩm công nghệ, vì chúng được sản xuất dựa trên hệ thống phức tạp nhất của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nhóm các nhà lãnh đạo Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã cam kết duy trì một môi trường đầu tư và thương mại tự do, công bằng, không phân biệt, minh bạch, có thể dự đoán và ổn định.

Tuy nhiên, các biện pháp thương mại đáp ứng trong tình hình dịch COVID-19 có xu hướng bị chia rẽ. Khoảng 50 thành viên của WTO đã ban hành khoảng 130 biện pháp thương mại liên quan đến dịch COVID-19.

55% trong số đó là nhằm tạo thuận lợi để giảm hoặc loại bỏ thuế nhập khẩu, cùng các biện pháp không liên quan đối với một số thiết bị y tế, thuốc, chất khử trùng, nguyên liệu thô, sản phẩm thực phẩm và các vật tư thiết yếu có liên quan chống lại dịch COVID-19.

Ngược lại, 45% số biện pháp có xu hướng hạn chế thương mại, áp đặt các hạn chế định lượng (QR) như hạn ngạch, thủ tục cấp phép xuất khẩu hoặc cấm xuất khẩu, đối với các sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến y tế.

Lưu ý rằng trong thời gian bình thường, QR không được phép thành lập bởi các thành viên WTO. Tuy nhiên, các trường hợp ngoại lệ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định để bảo vệ cuộc sống của con người. Do đó, sự phát triển này là phản tác dụng đối với nhu cầu chiến đấu chống lại đại dịch toàn cầu.

* Đòi hỏi nhiều hơn sự điều chỉnh

Vì không có thẩm quyền tối cao để xác định chính sách thương mại cho mục đích tập thể, mỗi chính phủ đương nhiên đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên các quốc gia khác. Do đó, trong tương lai, hoạt động thương mại toàn cầu cần được cơ cấu lại và định hình lại cả về mặt hệ thống giao dịch dựa trên quy tắc và sự năng động của thị trường.

Hàng hóa được xếp tại cảng Long Beach, California, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN

Thứ nhất, các biện pháp hạn chế có thể tiếp tục sau khi dịch COVID-19 kết thúc và phạm vi sẽ lan rộng ra các sản phẩm khác. Các yêu cầu như cấp phép, tiêu chuẩn, ghi nhãn… có thể tăng lên, đặc biệt đối với một loạt các mặt hàng tiêu dùng và sản phẩm thực phẩm trên cơ sở an toàn và sức khỏe của con người.

Hơn nữa, các nhà bảo hộ có thể coi cuộc khủng hoảng là cơ hội hiếm có và sử dụng nó như một cái cớ để áp đặt yêu cầu kỹ thuật đối với các sản phẩm nhập khẩu nhằm giải quyết thâm hụt thương mại.

Thứ hai, trong khi các rào cản chiếm ưu thế, chính phủ và doanh nghiệp có thể suy nghĩ lại và cơ cấu lại sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng.

Những người theo chủ nghĩa hiện thực và bảo vệ sẽ lập luận rằng sự gián đoạn hiện nay chứng tỏ sự dễ bị tổn thương của chuỗi cung ứng ra nước ngoài và cuộc khủng hoảng cho thấy sự cấp bách của việc đưa chuỗi cung ứng trở về nước.

Nếu không, lợi ích quốc gia sẽ nằm trong tầm ngắm của chính phủ nước ngoài. Ít nhất là đối với các sản phẩm y tế và thực phẩm, vì chúng liên quan chặt chẽ đến lợi ích an ninh quốc gia từ thời điểm này trở đi.

Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa tự do và những người ủng hộ thương mại sẽ thúc đẩy việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng và nhập khẩu hơn nữa, song sẽ đưa ra một kỷ luật thương mại nhất định để quản lý và bảo đảm chuỗi cung ứng. Dù bằng cách nào, kỷ luật thương mại sẽ khác so với trước đây và nhiều hơn về phía phòng thủ.

Thứ ba, thị trường sẽ thay đổi theo nhiều cách. Các công ty sẽ phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ. Lĩnh vực bán lẻ sẽ chứng kiến sự gia tăng trong thương mại điện tử.

Các ngành công nghiệp sẽ nhanh chóng chuyển sang tự động hóa và ít lao động hơn để đảm bảo các hoạt động có thể dự đoán được ngay cả trong thời điểm khủng hoảng. Quan trọng hơn, hành vi của người tiêu dùng sẽ thay đổi và đòi hỏi tiêu chuẩn hóa sản phẩm cao hơn do lo ngại về sức khỏe và an toàn.

Theo đó, cách thức hoạt động của ngành công nghiệp sẽ được thay đổi và buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn. Thị trường sẽ thiết lập chế độ riêng của mình.

Cuối cùng, thế giới không thể chiến đấu một cách thiếu chặt chẽ. Các quốc gia phải có khả năng phối hợp các biện pháp thương mại và đảm bảo bổ sung cho các chính sách quốc gia. Hơn nữa, các quốc gia có thể xem xét trao đổi thông tin về nhu cầu đối với hàng hóa thiết yếu và giải quyết chúng thông qua chuỗi cung ứng được lên kế hoạch trên quy mô toàn cầu.

Hệ thống giao dịch dựa trên các quy tắc đang bị thách thức và các quốc gia có thể cần phải viết lại hướng dẫn ở một mức độ nhất định. Trên hết, lợi ích quốc gia được ưu tiên hàng đầu.
Đối với thị trường, thay đổi đang đến bằng cách này hay cách khác. Sự thay đổi chỉ đang được đẩy nhanh hơn và đòi hỏi nhiều hơn sự điều chỉnh.

Đối với các quốc gia, họ cần một môi trường kinh tế kỹ thuật số thuận lợi như hệ thống băng thông rộng tốc độ cao và các chính sách thân thiện để hỗ trợ thương mại điện tử và cơ sở hạ tầng cho logistics hoàn thiện để phân phối liền mạch và dịch vụ giao hàng chất lượng cao.

Một sự kết hợp giữ các chính sách được mong đợi này có thể tạo ra sự phục hồi thương mại ở trên mức bình thường.