Để cộng đồng thực sự làm chủ rừng

Mặc dù đã được trao quyền “làm chủ” trong việc quản lý rừng, xong số diện tích mà cộng đồng thực sự làm chủ vẫn còn quá ít so với diện tích mà họ đang quản lý. Điều này gây khó khăn cho sự phát triển, sử dụng và phục hồi rừng của cộng đồng địa phương, đồng thời gây nguy cơ mất rừng và suy thoái rừng.

Theo số liệu của Tổng cục Lâm nghiệp, hiện Việt Nam mới chỉ có gần 524,5 ha rừng đã có quyết định giao cho trên 10.000 cộng đồng trên tổng số gần 1,2 triệu ha rừng (22,8%) do cộng đồng dân cư tham gia quản lý. Việc cộng đồng dân cư được công nhận là 1 trong 7 chủ thể rừng theo Luật Lâm nghiệp 2017 vừa có hiệu lực ngày 01/01/2019, kỳ vọng tạo bước tiến mới quan trọng trong thúc đẩy quản lý rừng cộng đồng, hướng tới bảo vệ bền vững các khu rừng tự nhiên, góp phần cải thiện sinh kế cộng đồng.

Quản lý rừng cộng đồng: Từ khía cạnh pháp lý tới thực tiễn

Khoản 6, Điều 4 Luật Lâm nghiệp 2017 quy định “Nhà nước bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số, cộng đồng dân cư sinh sống phụ thuộc vào rừng được giao rừng gắn với giao đất để sản xuất”.

Theo ông Nguyễn Việt Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên, sau gần 2 thập kỷ thực hiện thí điểm giao rừng và phát triển các mô hình quản lý rừng cộng đồng cho thấy cộng đồng địa phương có khả năng quản lý rừng cộng đồng một cách hiệu quả và mang lại nhiều lợi ích khác nhau về môi trường, kinh tế và xã hội.

Cụ thể, giao rừng cho cộng đồng giúp hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, gia tăng phục hồi và phát triển rừng, đồng thời giúp tạo thu nhập từ rừng cho người dân. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở nhiều địa phương, nhất là các cơ quan quản lý vẫn còn những định kiến hoặc ngần ngại, không ủng hộ giao đất, giao rừng cho cộng đồng vì thiếu đi niềm tin hoặc lo ngại sau khi giao rừng sẽ mất.

Tại Lai Châu, việc giao đất cho cộng đồng quản lý được thực hiện ở bản Hóc, Hồ Thầu, Tam Đường. Theo ông Phàn A Diu, Trưởng bản Chù Lìn, Hồ Thầu, Tam Đường (Lai Châu), tại bản có 128 hộ sinh sống với 685 nhân khẩu. Ở bản có 2 loại rừng là rừng thiêng và rừng cộng đồng với tổng diện tích là 335,16 ha.

Theo ông Phàn A Diu, nhờ có rừng mà đời sống người dân bản được cải thiện hơn rất nhiều, song hiện nay số lượng dân bản ngày càng đông trong khi diện tích định cư thì không đủ dẫn tới tình trạng có một số hộ lấn chiếm đất rừng để dựng nhà ở. Việc chưa có cơ sở để tự quản lý và bảo vệ rừng nên cộng đồng bản không có cách nào để ngăn chặn tình trạng này. Chính vì thế ông đã có kiến nghị lên các cấp huyện, tỉnh mở rộng, quy hoạch thêm diện tích để người dân có chỗ ở nhằm hạn chế tình trạng lấn chiếm rừng để xây nhà ở.

Đề cập về những hạn chế trong công tác giao đất, giao rừng tại Nghệ An, ông Quang Văn Đồng, Trưởng bản Hóc (Quỳ Châu, Nghệ An) phản ánh: Những năm qua, việc giao đất, giao rừng cho các chủ rừng ở một số nơi trên thực địa còn chưa phân định rõ ràng dẫn đến tình trạng canh tác chồng chéo, xâm chiếm lẫn nhau. Đặc biệt, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân còn chậm và chưa gắn với công tác giao rừng; hiệu quả từ khai thác diện tích rừng và đất lâm nghiệp giao cho hộ gia đình, cá nhân ở một số nơi còn thấp, nguồn thu nhập từ rừng chưa tương xứng với tiềm năng.

“Cộng đồng rừng” cần tư cách pháp nhân?

Theo đánh giá của giới chuyên gia nghiên cứu về rừng, nếu chiếu theo quy định, “rừng tự nhiên” là tài sản công, Nhà nước đại diện chủ sở hữu… thì công sức của người dân được giao rừng gần như mất trắng (?!). Trường hợp rừng cộng đồng Vi Chring ở xã Hiếu (Kon Tum) là một ví dụ. Năm 2008, cộng đồng thôn được nhận 808,8 ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên với mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ, làm giàu rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ và sử dụng rừng bền vững.

Tuy nhiên, tuyên bố “đóng cửa rừng tự nhiên” của Chính phủ từ năm 2010 vô hình trung… đã khóa chặt cơ hội được hưởng lợi của cộng đồng này khi không cơ quan nào “dám” phê duyệt cho họ khai thác dù là theo thiết kế bền vững. Thậm chí, rất nhiều các hộ gia đình được giao rừng tự nhiên đều muốn chặt rừng để thành rừng sản xuất, rừng trồng bởi đơn giản, với rừng trồng, họ được thừa nhận quyền sở hữu đối với rừng.

Để giải quyết những vấn đề nêu trên, theo các chuyên gia, cần thiết phải có những cải cách lớn để thiết lập một chế độ sở hữu và hưởng lợi từ rừng tự nhiên rõ ràng và phù hợp hơn nhằm một mặt hỗ trợ cơ quan quản lý trong công tác quản lý bảo vệ rừng, cải thiện hiệu quả nguồn lợi trên toàn bộ hệ thống.

Ngoài ra, trong hơn 10 triệu ha rừng tự nhiên hiện nay, cần xác định rõ diện tích nào thuộc sở hữu Nhà nước, diện tích nào có thể chuyển thành sở hữu chung (cộng đồng) hay sở hữu tư nhân. Với các diện tích rừng tự nhiên cần phải bảo vệ thì chuyển sang loại rừng bảo vệ, là tài sản công, sở hữu toàn dân và Nhà nước cần tập trung đầu tư nguồn lực để bảo vệ.

Đối với rừng tự nhiên là rừng sản xuất thì nên được công nhận tài sản của chủ rừng, thuộc sở hữu riêng hoặc sở hữu chung (cộng đồng). Chủ rừng cần được phép khai thác theo quy trình quản lý và khai thác rừng bền vững. Quy định này sẽ tạo nên động lực lớn cho phát triển và khai thác rừng sản xuất là rừng tự nhiên từ ngay các chủ rừng.

Với kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu về rừng, ông Đào Xuân Khanh, Viện Chứng chỉ Rừng kiến nghị Nhà nước cần có chính sách hợp lý hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số cũng như việc xem xét, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp để người dân yên tâm bảo vệ, phát triển rừng.