Ký ức Yôk Đôn đêm cuối năm

ThienNhien.Net – Tới Yôk Đôn đã không ít lần nhưng hiếm khi tôi có dịp hàn huyên, trò chuyện cùng Già làng Ây Nô của Buôn Trí thuộc vùng đất nổi tiếng Bản Đôn, Đăk Lăk, nhất là lại vào dịp cuối năm thường hay tất bật. Già đã sống qua 79 mùa rẫy, da Già răn reo như da voi trăm tuổi, tóc đã bạc trắng như đồi lau giữa mùa khô, nhưng cái đầu của Già thì vẫn nhớ như in mọi chuyện cách đây đã hơn nửa thế kỷ, cứ y như vừa mới ngày hôm qua. Một buổi chiều, khi tới nhà Già hỏi chuyện về rừng Yôk Đôn xưa, khuôn mặt Già bỗng thoáng nét đăm chiêu. Phải ít phút sau, Già mới chậm rãi: “Kể chuyện Yôk Đôn thì cái bụng tao nó buồn lắm, cái nhà tao nó cũng buồn lây. Thôi đừng kể trong nhà, ta ra bờ sông để cái buồn nó trôi theo nước chảy…”.

… qua lời kể của Già Ây Nô

Ngồi bên bờ sông Sê Rê Pôk buổi chiều đầu mùa khô 2011 se se gió. Bờ dã quỳ vàng rực trải dài bên sông như làm cho nắng chiều vàng hơn và buổi chiều vui hơn. Nước sông mùa này cũng đã chuyển màu từ sắc đỏ lờ lờ sang sắc xanh mát mắt. Nhưng nét mặt của Ây Nô thì chẳng vui lê chút nào, ngược lại còn man mác buồn. Nhìn vào ánh mắt Già, tôi nhận ra ngay điều đó.

Chỉ tay sang bên kia sông, Già nói, ấy là rừng Yôk Đôn. Đấy là cái kho của cải Giàng làm ra để tặng cho con người. Đấy là nơi đã cho tao cái ăn, cho tao bóng mát, cho tao niềm vui, nuôi lớn tao từ nhỏ như bà mẹ thứ hai của tao. Ấy là nơi ngày trước bộ đội từng núp, rồi đêm đến thì bơi qua sông để đánh thằng Pháp, thằng Mỹ xâm lược… Nhưng bây giờ mỗi lần nhìn sang Yôk Đôn, tao buồn lắm, tao muốn khóc, tao lại thương cái rừng đau quặn cái gan cái ruột!

Năm 1947, tao từ Pắc Sế nước Lào, theo ông chú Khăm Xay cưỡi voi xuyên rừng sang đây mua bán bạc, vàng, ngà voi, muối, vải… với người M’nông, sau đó thấy đất này dễ ăn, dễ làm, dễ sống thì ở lại đây luôn. Lúc ấy, tuổi tao mới chỉ đi qua 15 mùa ong mật. Rừng Yôk Đôn thời ấy nó rộng, dài, cây nhiều, cây to, cao ngửa mặt nhìn không tới đỉnh.

Thời ấy, gỗ cà te, cẩm lai, hương… nhiều lắm. Bước chân sang bờ sông bên kia, chỉ cách chỗ tao với mày ngồi đây chưa đến hai lần quăng dao là đã thấy những cây cà te, cây hương to tới ba người ôm mới hết. Thời ấy, voi rừng được thần Ngoắc Ngoan bảo vệ, cứ vào mùa Giàng đổ mưa lại về đầy bên kia sông, hết đàn này đến đàn khác, có đàn tới năm, sáu chục con, con nào cũng to, cao, da căng, bóng mượt. Mỗi lần đàn voi di chuyển từ xa đã nghe tiếng ào ào, đất rung chuyển như có bão rừng. Thời ấy còn nhiều lắm nai cà tông, bò tót, bò rừng…

Vẻ đẹp của Yôk Đôn khi xưa

Mùa khô ngồi bên này sông thỉnh thoảng lại thấy nai, hoẵng, bò rừng… mò xuống bờ sông uống nước. Mà mày đã biết nai cà tông chưa? Bây giờ thì nó bị giết chết cả rồi. Vì nó có bộ sừng quá đẹp, có 4 – 5 nhánh, 2 nhánh chính lượn mềm như hình vòng cung trên đỉnh đầu, các nhánh khác ở đỉnh sừng xòe ra như bàn tay. Người ta lấy sừng của nó để trang trí trong nhà. Còn chồn, nhím, rùa, ba ba, sóc, thỏ… thì nhiều lắm. Khi ông mặt trời sắp đi ngủ, ráng vàng hắt ngược sau đỉnh Yôk Đôn, phía bên kia sông, nhiều hôm thấy thỏ, rùa, nhím… chạy cả đàn, muốn bắt một vài con cũng dễ như bắt trong chuồng vậy.

Vào mùa mưa, khi những thảm cỏ dọc bờ sông mọc lên xanh mướt, buổi sáng đứng bên này sông nhìn sang bên kia, nhiều hôm thấy những đàn công năm, bảy con đùa giỡn nhau, giang cánh, xòe đuôi múa lượn trong nắng, giống như lũ con gái của buôn múa hát và giỡn nhau trong những đêm hội.

Cũng nhờ vậy mà ngày xưa vùng Bản Đôn này giàu có lắm, đông đúc lắm. Người M’nông, người Ê Đê, người Lào, người Gia rai cũng quy tụ về đây sống hòa thuận với nhau, cùng nhau đi săn bắt và thuần dưỡng voi rừng thành voi nhà. Cũng nhờ vậy mới có vua săn voi Y Thu từng bắt được 497 con voi rừng, mới có Ama Kông lừng danh, vừa biết bắt voi giỏi, vừa biết bắt bò tót bằng tay không, và Bản Đôn mới trở thành nơi đô hội của cả một thời kỳ dài của tỉnh Đắk Lắk trước khi người Pháp thành lập tỉnh lỵ mới ở Buôn Ma Thuột…

Còn bây giờ Yôk Đôn đã bị người ta băm nát. Gỗ quý như cà te, cẩm lai là của hiếm, giáng hương cũng sắp hết. Hổ, gấu vắng bóng. Voi thì cả vùng đất rộng lớn này may ra còn ba, bốn chục con. Cả những con thú nhỏ như chồn, nhím, thỏ… cũng đã bị người ta bắt ăn thịt gần hết. Cứ phá, cứ bắt, cứ giết như thế này thì năm, bảy năm nữa Yôk Đôn chỉ còn lùm bụi, lau lách thôi…”.

Nói đến đây, Ây Nô chợt thở dài thườn thượt, đầu cúi nhìn hai bàn chân răn reo của mình như để tưởng nhớ lại những lối mòn trong rừng Yôk Đôn mà đã bao tháng năm ông gắn bó, bao ngàn lần ông đi lại dọc ngang.

Tôi vỗ nhẹ vào vai ông an ủi: “Già ơi, rồi người ta sẽ củng cố việc quản lý bảo vệ rừng. Rừng Yôk Đôn không mất đâu, sẽ vẫn còn và còn mãi với bà con Bản Đôn, với Tây Nguyên. Già nhìn kìa, bao nhiêu cây non người ta mới trồng bên sông đang vươn cành xanh biếc…”.

Nói vậy nhưng Già vẫn không ngẩng mặt nhìn sang, vẫn đăm đăm nhìn vào hai bàn chân răn reo và nói bằng thứ giọng đục đục kéo dài trong cổ họng: “Ta..ao…khô… ông…tin…, khô… ông… tin…”. Vốn là người sống vui vẻ, lạc quan, hay nói chuyện vui, nay phải thốt ra câu đó, tôi biết ông đã vô cùng thất vọng về công tác quản lý, bảo vệ rừng nơi đây.

… của người viết

Năm 1991, khi Vườn quốc gia Yôk Đôn được thành lập, chúng tôi đã vào dự lễ và đích thân được ông Hồ Viết Sắc, Giám đốc Vườn dẫn đi tham quan, giới thiệu tỉ mỉ về đặc điểm nổi bật của hệ sinh thái rừng.

Với vẻ mặt đầy hứng khởi, chất giọng Huế nhẹ nhàng, cuốn hút, ông Sắc cho hay:

Vườn rộng 58.000 ha. Khác với tất cả những vườn quốc gia trong nước, hệ sinh thái ở đây là hệ sinh thái rừng khộp có tính đặc trưng không chỉ trong nước mà cả trên thế giới. Thực vật Vườn chủ yếu là các cây họ dầu, rụng lá về mùa khô. Việc rụng lá sẽ giúp cây giảm thoát hơi nước, qua đó bảo toàn được sự sống trong suốt 6 tháng mùa khô khắc nghiệt. Đây chính là sự thích ứng, được chọn lọc và hình thành qua hàng vạn năm của thiên nhiên kỳ diệu.

Dẫu vậy, khi mùa mưa đến, tất cả lại ào ạt bật lá, trổ mầm, cây nào cũng xum xuê hoa lá, rừng bỗng mơn mởn xanh, rực rỡ những sắc đỏ, hồng, vàng, tím và ngào ngạt hương thơm của các loài hoa.

Chính vì lẽ đó mà rừng ở đây có tính đa dạng sinh học rất cao, hệ động, thực vật cực kỳ phong phú. Về thực vật có tới 474 loài thuộc 101 họ, 328 chi, trong đó có 19 loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam. Về động vật có 66 loài thú, 241 loài chim, 46 loài bò sát, 16 loài lưỡng cư, 30 loài cá, trong đó cũng có 70 loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam.

Không chỉ là kho tài nguyên quý giá về gỗ quý, về dược liệu, thực phẩm, rừng Yôk Đôn còn góp phần quan trọng trong việc phòng hộ cho sông Sê Rê Pôk, cho Tây Nguyên và cho cả nước bạn Campuchia.

Tôi nhớ mãi buổi trưa hôm đó, ông Sắc đã cùng chúng tôi nghỉ chân bên cạnh cây giáng hương cỡ lớn, đường kính khoảng 1,5 m, cao chừng 15m. Từng được nghe nhiều, đọc nhiều về giáng hương nhưng đó là lần đầu tiên trong đời tôi được trực tiếp thấy loài cây gỗ quý hiếm này, thân chúng thẳng tắp, vỏ nâu sẫm, tròn lẳn, dáng hiên ngang, hoa kết thành từng chùm, mọc ra từ nách lá, cánh nhỏ, màu vàng, hương thơm thoang thoảng.

Ông Sắc cho hay, chỉ một cây hương này thôi cũng đủ làm đồ nội thất cao cấp cho cả bốn, năm gia đình lớn. Ai cũng tấm tắc, xuýt xoa… Rồi ông lại chỉ sang trái, sang phải, phía trước, phía sau, và giới thiệu “đây cũng là giáng hương, đây là cây cà chít, gỗ tốt như gỗ lim ở ngoài Bắc, đây là cây căm xe, gỗ có màu nâu hồng, không mối mọt, làm khung ngoại, ván sàn thì tuyệt vời, đây là cây dầu gió, kia là cây dầu đồng…”.

Nhìn ra bốn phía, phía nào cũng thấy cây gỗ san sát, cây nào cũng đeo trên mình ít nhất một vài khóm phong lan, đung đưa sắc tím, sắc vàng, cây nào cũng phát ra từ vòm xanh những tiếng chim lúc nghe lích chích như lời tâm tình, lúc thánh thót, cao vút như hồ hởi, reo vui…

Và thế giới thực tại…

Bây giờ, Vườn đã được mở rộng lên 115.454 ha nhưng thực chất nó chỉ còn là cái tên và cái vỏ – tôi dám khẳng định như vậy bởi vấn nạn lâm tặc đã hoành hành ở đây gần chục năm qua, đặc biệt là khoảng ba năm trở lại đây. Phần ruột của Vườn gồm hầu hết các loại gỗ quý đã bị khai thác gần như hết, nhiều tiểu khu gỗ “có tên có tuổi” cũng hoàn toàn vắng bóng.

Có dịp lội rừng Yôk Đôn tới 5 lần trong 2 năm qua, chúng tôi thấy rõ lâm tặc đã và đang “làm chủ” Vườn quốc gia ở đây như thế nào. Từ tiểu khu 441, 434, 447 đến tiểu khu 508, nơi gần với đỉnh Yôk Đôn, và chỉ cách điểm trung tâm vùng lõi vài cây số, đến đâu chúng tôi cũng thấy lâm tặc ngang nhiên tung hoành như thể đó là vườn tại gia của chúng vậy.

... và cảnh tượng khi Yôk Đôn bị lâm tặc chặt phá tơi bời

Đủ mọi loại phương tiện khai thác hiện đại được chúng sử dụng, từ máy kéo, công nông cho đến cưa xăng, tất cả đều được sử dụng một cách lão luyện. Sau khi đã khai thác hết những cây cà te, cẩm lai có giá dăm bảy chục triệu đồng mỗi mét khối, chúng tiếp tục “vạc” đến những loại gỗ ít tiền hơn như hương, cam xe, cà chít, sến…

Điều lạ là trong số hàng trăm vụ vi phạm mỗi năm thì chỉ có vài ba vụ bị xử lý, thậm chí nhiều khi lâm tặc chặt gỗ ngay bên đường tuần tra hoặc sát trạm kiểm lâm nhưng vẫn không bị cơ quan chức năng phát giác. Đó có lẽ cũng là lý do chính khiến Già Ây Nô không còn tin vào công tác quản lý bảo vệ rừng ở Yôk Đôn nữa.

*****

Đêm cuối năm, tôi nằm nghĩ về Yôk Đôn, về hàng trăm tin, bài của tôi và đồng nghiệp đã viết về nạn phá rừng ở nơi đây trong suốt mấy năm qua, nhưng công tác quản lý bảo vệ rừng vẫn chẳng khá lên chút nào, cũng chẳng thấy ai bị xử nghiêm về việc để mất rừng.

Chợt nhớ tới lời nhắn nhủ của Già Ây Nô, rằng “chỉ dăm bảy năm nữa thôi, Yôk Đôn sẽ chỉ còn là lùm bụi, lau lách”, tôi lại nhớ tới mấy câu thơ tự tác từ lâu về sự “ra đi” của rừng Bản Đôn – Ea Súp:

Rừng xưa giờ đã về đâu

Hỏi ai đây giữa ngàn lau bạc đầu?

Ngàn lau xao xác u sầu:

Rừng xưa đã hóa nỗi đau nhân tình…

Và nếu “nỗi đau nhân tình” ấy không sớm được hóa giải thì ai sẽ mang lại niềm tin cho Già Ây Nô và biết bao người khác, ai sẽ có thể khẳng định Yôk Đôn sẽ còn mãi với Tây Nguyên, với đất nước như hy vọng mà tôi đã thổ lộ với Già?