Nghiên cứu mới cho nghề nuôi tôm

ThienNhien.Net – Dịch bệnh, ô nhiễm, chi phí cao…là những nguyên nhân khiến người dân nuôi tôm ở nhiều nơi lao đao, rơi vào cảnh nợ nần. Trường ĐH Quốc tế (ĐH Quốc gia TPHCM) đã hoàn thành một nghiên cứu về ứng dụng công nghệ Biofloc nhằm xử lý chất thải giảm ô nhiễm nước, tạo nguồn thức ăn và hỗ trợ công tác phòng bệnh ở tôm.

Thông tin đăng tải trên báo Sài gòn giải phóng ngày 01/07/2010 cho biết công nghệ Biofloc này dựa trên cơ sở sử dụng vi khuẩn tự dưỡng để chúng có thể chuyển cơ chất (các chất thải hữu cơ) trực tiếp thành sinh khối vi khuẩn.

Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy chỉ có khoảng 25 – 45% lượng protein có trong thức ăn nuôi tôm được chuyển hóa thành sinh khối của tôm nuôi. Phần còn lại tồn tại trong môi trường nuôi dưới dạng thức ăn thừa hoặc các sản phẩm bài tiết của tôm. Đặc biệt gần về cuối vụ, khi khối lượng thức ăn đưa xuống ao mỗi ngày một lớn, chất thải của tôm cũng nhiều hơn khiến hồ nuôi bị ô nhiễm.

Nhờ vào các quá trình tự nhiên, các chất thải hữu cơ sẽ được vi sinh vật phân hủy, tạo ra các muối dinh dưỡng có thể hấp thụ bởi tảo trong ao nuôi, nhờ vậy làm sạch nước dần dần. Tuy nhiên, thời gian phân hủy của các hợp chất hữu cơ thường kéo dài, nên tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loại vi sinh vật, trong đó có các vi sinh vật có thể gây bệnh cho tôm.

Do đó, để đảm bảo chất lượng nước tốt, người nuôi cần phải xử lý triệt để chất thải có trong nước ao. Hiện nay có 2 phương thức xử lý: ngay trong ao hoặc bên ngoài ao nuôi.

Xử lý nước bên ngoài ao nuôi chính là công nghệ lọc tuần hoàn. Nước trong ao nuôi được dẫn ra ngoài qua các ao xử lý gồm các công đoạn lắng, lọc cơ học, lọc sinh học rồi được dẫn về ao để tái sử dụng hoặc thải ra ngoài môi trường.Tuy nhiên phương thức này khá phức tạp, chi phí cao và đòi hỏi diện tích lớn.

Để xử lý nước bẩn/ô nhiễm ngay trong ao nuôi, người ta có thể tạo điều kiện để các loài tảo bám (periplankton) hoặc vi khuẩn dị dưỡng phát triển. Sử dụng tảo bám không tiện lợi vì cần phải tạo giá thể cho chúng bám và khả năng xử lý chất thải phụ thuộc vào khả năng đảm bảo thời gian, cũng như cường độ chiếu sáng. Hướng sử dụng vi khuẩn tự dưỡng để chúng có thể chuyển cơ chất (các chất thải hữu cơ) trực tiếp thành sinh khối vi khuẩn được xem là giải pháp hiệu quả hơn. Đây cũng chính là cơ sở của công nghệ Biofloc.

Công nghệ Biofloc tạo điều kiện thuận lợi để các vi khuẩn dị dưỡng phát triển mạnh vì chúng có khả năng đồng hóa các chất thải hữu cơ, chuyển thành sinh khối của vi khuẩn trong thời gian cực ngắn mà không cần ánh sáng như các loại tảo. Nếu được giữ lơ lửng liên tục trong nước, khi đã đạt một mật độ nhất định, các vi khuẩn sẽ kết dính lại với nhau thành những hạt nhỏ (floc) có giá trị dinh dưỡng cao, có thể sử dụng làm thức ăn cho tôm, cá.

Theo công nghệ Biofloc, các vi khuẩn dị dưỡng được điều kiện phát triển bằng cách: bổ sung nguồn carbon rẻ tiền vào môi trường ao để cân đối với hàm lượng N có sẵn, duy trì mức độ khuấy đảo nước trong ao và hàm lượng oxy hòa tan thích hợp.

Bên cạnh đó, việc sử dụng các hệ thống quạt nước hoặc sục khí trong ao nuôi hết sức quan trọng, để có thể giữ cho vi khuẩn và các hạt floc lơ lửng trong nước, cung cấp đủ ôxi hòa tan cho hoạt động trao đổi chất của vi khuẩn. Chính vì thế mà công nghệ Biofloc tiêu tốn năng lượng và thích hợp với các mô hình nuôi thâm canh hơn quảng canh. Tuy nhiên, chi phí gia tăng về năng lượng có thể được bù đắp nhờ tiết kiệm chi phí về thức ăn và xử lý môi trường.