Khuyến cáo của BirdLife về đối phó với dịch cúm gia cầm (Phần 1)

ThienNhien.Net – Có rất nhiều chủng cúm gia cầm khác nhau , lan truyền hầu hết trong các loài chim hoang dã, nhưng tỉ lệ nhiễm bệnh chỉ có ở một vài loài chim nước với khả năng không cao. Các loại virút này thường mang mầm bệnh thấp và chỉ ảnh hưởng nhẹ đến các loài chim cũng như gia cầm.

Tuy nhiên, trong các điều kiện nuôi gia cầm tập trung đông đúc, một vài biến thể của loại virút phụ H5 và H7 từ những loài chim hoang dã , đã phát triển thành loại virút “Cúm gia cầm mang mầm bệnh cao” – H5N1. Nó có thể là nguyên nhân gây bệnh cho gia cầm và những cái chết hàng loạt của chúng.

Hiện nay, “Cúm gia cầm mang mầm bệnh cao” rất khó có thể lây nhiễm sang người nhưng nhiều lo lắng cho rằng, loại virút này có thể phát triển đến mức có khả năng lây nhiễm từ người sang người và gây chết nhanh chóng . Các con chim hoang dã cũng có thể bị nhiễm bệnh và chết do virút này nhưng số lượng sẽ ít. Đó là do chúng đã tiếp xúc với gia cầm nhiễm bệnh hoặc những nơi chúng sinh sống có loại virút đó.

Tổ chức Bảo tồn Chim quốc tế (BirdLife) đã tìm cách loại bỏ hoàn toàn chủng virút cao H5N1 từ hệ sinh thái khi phát hiện ra rằng loại virút này đã xâm nhập và đang phát triển nhanh chóng ở một vài khu vực. BirdLife tỏ ra rất quan tâm và lo lắng về tỉ lệ người chết do lây nhiễm H5N1 ngày càng tăng cao cũng như những thiệt hại kinh tế mà các khu vực này – những vùng sống chủ yếu dựa vào gia cầm đang phải gánh chịu do ảnh hưởng của chủng virút này. Họ cũng thê hiện mối lo thực sự về một đại dịch ở người có thể xảy ra trong tương lai .

H5N1 có thể lan truyền qua nhiều con đường khác nhau trong một nước cũng như giữa các nước. Do đó cần phải duy trì giám sát thường xuyên các hoạt động có khả năng lan rộng H5N1. Cần ứng phó hiệu quả đối với mọi khả năng lan truyền có thể xảy ra. Các hoạt động như vận chuyển gia cầm bị bệnh và các sản phẩm gia cầm chưa xử lí (bao gồm cả phân hoá học), tái sử dụng các thùng vận chuyển không đạt tiêu chuẩn và việc vận chuyển các loài chim hoang dã cũng như buôn bán chúng….đều cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Cũng cần phải có cuộc điều tra về việc sử dụng phân bón gia cầm bị nhiễm bệnh được sử dụng làm phân bón trong nông nghiệp hay thức ăn ở các trang trại nuôi cá và nuôi lợn…, mà theo như Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc mô tả, đó là một hoạt động có nguy cơ cao.

Những đợt bùng phát dịch cúm đối với các loài chim hoang dã ở Châu Âu và I ran trong suốt năm 2006 cho thấy, những con chim hoang dã cũng có khả năng là một vật lan truyền loại virút này. Nhiều vấn đề được đặt ra đều liên quan đến những ảnh hưởng của virút này đối với các con chim hoang dã và chúng có thể lan truyền mầm bệnh cho các con chim và các loại gia cầm khác nhanh như thế nào, đặc biệt là ở khoảng cách xa .

Qua so sánh, thì các đợt bùng phát trong năm 2006 ở Camơrun, Ai Cập, Ấn Độ, Ixaren, GioócĐani, Nigiêria, Gibuti, Lào và Pakixtan đều xuất phát từ nền công nghiệp gia cầm của các nước này . Còn các đợt bùng phát năm 2007 ở Hunggari, Hàn Quốc, Nhật, Anh, Thái Lan và các đợt bùng phát tiếp theo, đặc biệt là Inđônêxia cũng liên quan đến sản xuất gia cầm công nghiệp.

Đã có một bằng chứng đầy đủ cho rằng, việc vận chuyển gia cầm và các sản phẩm gia cầm là nguyên nhân chính trong hầu hết các đợt bùng phát H5N1. Một nguyên nhân khác là do các hoạt động chăn nuôi gia cầm qui mô lớn nhiều thành phần, cho thấy rằng các con chim di cư không chắc là tác nhân của sự lây truyền. Hơn nữa, các tính toán tại thời điểm những đợt bùng phát này không trùng khớp với sự di chuyển của chim di cư.

Đối với vùng Đông Nam Á, sự phân tích toàn diện mới đây về các chủng virút đã đưa ra kết luận rằng, sự vận chuyển gia cầm là nguyên nhân chính du nhập nhiều thành phần virút cúm ở trong nước cũng như giữa các nước, và “sự lan truyền virút cúm trong gia cầm là phương thức chính để duy trì các đặc thù của H5N1 ở vùng này”.

Đầu năm 2006 cũng như trong năm 2007, một vài con chim hoang dã bị chết ở Hồng Kông đã được tìm thấy ở những khu vực đô thị, xa những nơi sống tự nhiên của chúng. Lý giải về trường hợp này, có một bằng chứng đã cho rằng, các con chim chết đó đều liên quan đến đợt phóng sinh những con chim bị nhốt vì lí do tôn giáo. Chúng rất có khả năng là vật mang mầm bệnh. Đây là một phương thức hiệu quả và phổ biến mà theo đó H5N1 được lan truyền.

Tháng 01/2007, Liên Minh Châu Âu đã đưa một lệnh cấm không hạn định về việc nhập khẩu các con chim hoang dã bị nhiễm H5N1. Và hiện nay, cũng có nhiều lời kêu gọi về một lệnh cấm tương tự trong việc nhập khẩu những con chim như thế ở Hồng Kông.

Khi các đợt bùng phát H5N1 tiếp tuc, cần phải bình tĩnh, cân nhắc kịp thời và hiệu quả. BirdLife khuyến cáo:

– Có biện pháp an toàn sinh học ở mọi cấp độ đối với nền công nghiệp gia cầm

– Kiểm soát chặt chẽ, tốt hơn là nên cấm việc vận chuyển tất cả các sản phẩm gia cầm bao gồm cả phân và thức ăn được làm từ phế thải gia cầm.

– Tạm ngừng việc buôn bán các loài chim hoang dã có xuất xứ từ các vùng bị ảnh hưởng.

– Liên kết và chia sẻ thông tin nhanh chóng giữa cơ quan thú y, cơ quan giám định y tế, cơ quan nông nghiệp và cơ quan sinh thái học trên khắp thế giới.

– Chính phủ, các cơ quan chức năng và báo chí cần đưa thông tin chính xác. Thông tin sai lệch hoặc gây xôn xao dư luận có thể dẫn đến nhiều hậu quả, dễ dàng làm cho hướng dẫn sai gây ra sự kích động trong quần chúng về H5N1.

– Cần có tăng cường sự giám sát những con chim hoang dã cư trú và di trú , bằng việc thu thập nhiều thông tin sinh thái học có thể về trường hợp các đợt bùng phát đã xác nhận. BirdLife tin tưởng rằng những kết quả này, dù hữu ích hay vô ích thì đều được xuất bản và làm tài liệu sẵn có cho các cuộc nghiên cứu.

– Cần phải có nhiều cuộc nghiên cứu hơn nữa trong lĩnh vực sinh thái học về H5N1 ở các môi trường tự nhiên nhằm nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về mầm bệnh, chủng hoặc số lượng, qui mô và sự lan truyền của virút H5N1, cũng như những tuyến di chuyển của các con chim .

– Cần phát hiện và điều tra nhanh chóng về những cái chết của các con chim di cư . Đôi những cái chết đó xảy ra vì nhiều lí do hơn là do H5N1 và nó sẽ không là nguyên nhân của sự lo sợ .

Ở một vài nơi trên thế giới, các quan chức đã cố gắng kiểm soát sự lan rộng của H5N1 bằng việc cách ly những con chim hoang dã, phá huỷ các nơi cư trú của chúng hoặc thay thế những nơi này từ những nơi đậu và sinh sản. Nhưng những biện pháp này chẳng những không đem lại hiệu quả mà thường chúng còn làm cho các vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Chúng cũng có thể làm tăng thêm sức ép trong trách nhiệm đối với các loài do việc mất đi nơi cư trú.

Nguy cơ con người nhiễm H5N1 vẫn còn rất thấp. Trong thực tế thì tất cả các trường hợp ở người bị nhiễm bệnh đều cho kết quả từ việc tiếp xúc gần gũi và thường xuyên với gia cầm, nhưng số lượng người có sự tiếp xúc này được biết đến rất ít, đặc biệt là ở Châu Á.

BirdLife tin tưởng rằng, cần phải có sự hợp tác mật thiết giữa các bác sĩ thú y, nền công nghiệp và thức ăn gia cầm, các cơ quan nông nghiệp, y tế và môi trường để giải quyết mối đe doạ về cúm gia cầm một cách hiệu quả.