Khôi phục cảnh quan vùng đất ngập nước rừng tràm Trà Sư

Dự án nhằm tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của thiên nhiên trước tác động của biến đổi khí hậu thông qua bảo tồn rừng và phục hồi đa dạng sinh học.

Bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học

Sở NN-PTNT An Giang vừa phối hợp với WWF khởi động dự án khôi phục các vùng đất ngập nước ở ĐBSCL, thông qua các biện pháp phục hồi rừng tràm đặc dụng và phòng hộ tại Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư thuộc thị xã Tịnh Biên (An Giang).

Dự án sẽ tập trung vào nghiên cứu và thực hiện các giải pháp sinh kế dựa vào thiên nhiên, có khả năng mở rộng và đầu tư quy mô lớn trên toàn vùng thượng lưu ĐBSCL. Qua đó góp phần đạt mục tiêu chung về bảo tồn đa dạng sinh học các hệ sinh thái nước ngọt Việt Nam, đồng thời đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư địa phương.

Rừng tràm Trà Sư, tỉnh An Giang, nằm trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam, được công nhận là Khu bảo vệ cảnh quan từ năm 2005. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Rừng tràm Trà Sư, tỉnh An Giang, nằm trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam, được công nhận là Khu bảo vệ cảnh quan từ năm 2005. Với 845 ha diện tích vùng lõi được bảo tồn và hơn 1.100 ha vùng đệm, khu vực này hàng năm trực tiếp nhận nước lũ từ sông Mekong vào mùa mưa, giúp duy trì chế độ ngập – khô theo mùa của một vùng đất ngập nước tự nhiên.

Các sinh cảnh chính của rừng tràm Trà Sư là rừng tràm, đầm lầy và đồng cỏ. Hệ thực vật ở rừng tràm Trà Sư đa dạng với 140 loài, nổi bật nhất là cây tràm và thảm bèo giăng kín mặt nước. Hệ động vật ở đây cũng khá phong phú, với ít nhất 70 loài chim được ghi nhận, trong đó có 2 loài được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam là Giang Sen và Điên Điển (chim cổ rắn), 11 loài động vật có vú bao gồm dơi quý hiếm và ít nhất 25 loài bò sát và ếch nhái. Ngoài ra, rừng tràm Trà Sư còn là nơi trú ngụ quanh năm của 10 loài cá bản địa và 13 loài cá di cư vào mùa lũ, trong đó có 2 loài cá đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng là cá còm và cá trê trắng.

Rừng tràm Trà Sư với 845 ha diện tích vùng lõi được bảo tồn và hơn 1.100 ha vùng đệm, khu vực này hàng năm trực tiếp nhận nước lũ từ sông Mekong vào mùa mưa. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Dự án Thực hiện các giải pháp dựa vào thiên nhiên nhằm khôi phục các vùng đất ngập nước và các quá trình tự nhiên của ĐBSCL, sẽ tập trung vào nghiên cứu và thực hiện các giải pháp sinh kế dựa vào thiên nhiên được WWF và Sở NN-PTNT An Giang xây dựng và thực hiện với sự tài trợ của Tập đoàn Industria De Diseno Textil, SA (gọi tắt là Inditex) của Tây Ban Nha. Với mong muốn tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của thiên nhiên trước các tác động của biến đổi khí hậu thông qua bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học ở các vùng đất ngập nước và phát triển các mô hình sinh kế dựa vào thiên nhiên ở vùng thượng của ĐBSCL.

Giải pháp canh tác thuận thiên

Các giải pháp canh tác thuận thiên, kết hợp với sự phát triển nông nghiệp hiện đại, công nghệ cao sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích cho người dân và hệ sinh thái nông nghiệp tại An Giang, tạo tiền đề và cơ sở khoa học để nhân rộng trên toàn vùng ĐBSCL.

Với mong muốn đóng góp cho việc thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP và Quy hoạch vùng ĐBSCL 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, trong thời gian qua, WWF-Việt Nam đã hỗ trợ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo thuận thiên ở ĐBSCL. Cụ thể như trồng lúa mùa nổi kết hợp nuôi cá, lúa kết hợp thả vịt, thả cá bản địa mùa lũ, trồng sen kết hợp nuôi cá, tôm càng xanh… nhằm tăng thời gian lưu trữ nước lũ trong các cánh đồng ngập lũ giúp gia tăng lượng phù sa bồi đắp trên các cánh đồng làm màu mỡ đất. Đồng thời còn giúp ngăn chặn các mầm bệnh của vụ trước, sẽ góp phần bổ cập cho các tầng nước ngầm và duy trì dòng chảy ở đồng bằng vào mùa khô.

Với sự hợp tác chặt chẽ của ngành nông nghiệp An Giang, các mô hình bảo tồn và canh tác nông nghiệp theo thuận thiên sẽ được nghiên cứu và triển khai tại khu vực trong và xung quanh Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư trong 3 năm tới.

Ông Văn Ngọc Thịnh, Trưởng Đại diện của WWF-Việt Nam chia sẻ: Sự bền vững của ĐBSCL đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, phát triển thuỷ điện và các công trình thủy lợi lớn ở thượng nguồn, hoạt động khai thác tài nguyên quá mức, hay canh tác nông nghiệp, thủy sản thiếu bền vững.

Hệ động vật ở đây cũng khá phong phú, với ít nhất 70 loài chim được ghi nhận, trong đó có 2 loài được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam là Giang Sen và Điên Điển… Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Chính vì thế chúng ta cần phải có những hành động kịp thời, những giải pháp hiệu quả và sự hợp tác chặt chẽ của cả khối công, tư, cộng đồng trong nước và quốc tế để giải quyết khẩn cấp những vấn đề này. Nghị quyết 120/NQ-CP chính là cơ hội để chúng ta hiện thực hóa việc triển khai các giải pháp “canh tác nông nghiệp dựa vào thiên nhiên” ở ĐBSCL và khi đó việc trồng lúa sẽ không chỉ giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực mà còn giúp cân bằng các yếu tố sinh thái, môi trường, cung cấp các sản vật tự nhiên, bảo vệ sức khỏe người dân và tạo thương hiệu sản phẩm bền vững.

Dự án sẽ tập trung vào nghiên cứu và thực hiện các giải pháp sinh kế dựa vào thiên nhiên được triển khai từ ngày 1/8/2023 đến 31/12/2025 nhằm bảo vệ và phục hồi các sinh cảnh đất ngập nước và các chu trình tự nhiên của đồng bằng như dòng chảy tự do, tích tụ và bồi lắng phù sa ở vùng đệm, thông qua thực hiện các hoạt động triển khai ở trong và xung quanh rừng tràm Trà Sư ở tỉnh An Giang.

Cụ thể, dự án sẽ hỗ trợ Ban quản lý rừng tràm Trà Sư trồng mới 60 ha rừng và nuôi dưỡng 100 ha rừng suy thoái, khôi phục các sinh cảnh và các loài bản địa thông qua các chiến lược quản lý, điều tiết thủy văn phù hợp, hiệu quả cho từng tiểu khu, bảo vệ và giám sát đa dạng sinh học trong vùng lõi. Bên ngoài vùng đệm, các mô hình sinh kế dựa vào lũ sẽ được triển khai để đem lại lợi ích kinh tế, môi trường và sự ủng hộ của người dân địa phương.

Dự án cũng xây dựng và thử nghiệm các giải pháp sinh kế dựa trên thiên nhiên có tiềm năng mở rộng, có tính khả thi cho đầu tư quy mô lớn trên toàn vùng thượng của ĐBSCL. Các bài học kinh nghiệm sẽ được tổng hợp để chia sẻ và mở rộng việc khôi phục các sinh cảnh đất ngập nước và các chu trình tự nhiên.

Rừng tràm Trà Sư cần được bảo vệ

Những mô hình sinh kế dựa vào lũ, thích ứng với biến đổi khí hậu và thân thiện với môi trường ở An Giang và các tỉnh đầu nguồn ĐBSCL như Đồng Tháp, Long An… sẽ được hệ thống hóa để nhân rộng ra những khu vực có điều kiện tự nhiên phù hợp và có sự tham gia của người dân, kết nối với thị trường và các chuỗi cung ứng bền vững. Đây sẽ là tiền đề để thu hút các nguồn lực của toàn xã hội tham gia thúc đẩy phát triển các mô hình sinh kế phù hợp với từng vùng sinh thái trên toàn vùng thượng của ĐBSCL.

Theo ông Nguyễn Đức Duy, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang, vùng đất ngập nước có vai trò rất lớn đối với con người và thiên nhiên bởi nó có thể lọc các chất độc hại, lưu trữ carbon giúp chống lại các tác động của biến đổi khí hậu, giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực trong điều kiện thời tiết cực đoan, lưu trữ nước mưa, nước chảy tràn khi mưa bão giúp giảm lũ lụt và hỗ trợ cấp nước khi hạn hán; đảm bảo đa dạng sinh học là môi trường sống của hàng ngàn loài sinh vật; đảm bảo nguồn cung cấp thức ăn và tạo nên các nguồn sinh kế cho người dân.

Rừng tràm Trà Sư đón hơn 30.000 lượt khách hàng năm, mang lại nguồn thu nhập bổ sung cho cộng đồng địa phương. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Đặc biệt ĐBSCL có vai trò cực kỳ quan trọng đối với thiên nhiên, sản xuất lương thực và cộng đồng. Nó cung cấp một tỷ lệ gạo đáng kể cho khu vực, là nguồn cung cấp cá quan trọng và “thực phẩm xanh” khác, là trụ cột của nền kinh tế Việt Nam và là nơi sinh sống của 20 triệu người.

Nằm ở thượng nguồn ĐBSCL, Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư là một sinh cảnh tự nhiên đa dạng sinh học cao, hỗ trợ các loài động thực vật bản địa và là một điểm du lịch sinh thái phổ biến nên cần được bảo vệ. Bên cạnh đó, rừng tràm Trà Sư đón hơn 30.000 lượt khách hàng năm, mang lại nguồn thu nhập bổ sung cho cộng đồng địa phương.

Hệ sinh thái đất ngập nước và vùng đệm của Trà Sư cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì các dòng nước động và theo mùa, quan trọng đối với việc quản lý nước và lửa trong mùa khô nhằm hạn chế sự chia cắt môi trường sống.

“Thực trạng sản xuất lúa thâm canh là nguyên nhân chính làm mất đa dạng sinh học, giảm khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL và mất môi trường sống của các giống loài trong Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Trà Sư. Các hoạt động này đã làm giảm lũ lụt theo mùa trên khắp ĐBSCL, có nghĩa là phù sa giàu chất dinh dưỡng cần thiết cho việc duy trì đồng bằng và môi trường sống không còn được bồi lấp trên vùng ngập lũ”, ông Nguyễn Đức Duy, Phó Giám Sở NN-PTNT An Giang cho biết.