“Vòng luẩn quẩn” giữa nhiệt độ cao và nhiên liệu hóa thạch

Khi các đợt nắng nóng ngày càng nhiều và khắc nghiệt hơn, nhu cầu đối với nhiên liệu hóa thạch cũng lớn hơn và làm tăng thêm lượng khí thải nhà kính, vốn là nguyên nhân làm tăng nhiệt độ toàn cầu.

Khói thải từ nhà máy điện than ở Suralaya, tỉnh Banten, Indonesia. (Nguồn: Reuters/TTXVN)

Theo báo Japan News, trong khi các đợt nắng nóng kỷ lục đang thiêu đốt Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia khác, nhiên liệu hóa thạch lại đang được hưởng lợi.

Công ty nghiên cứu thị trường hàng hóa S&P Global Commodity Insights cho biết tiêu thụ khí đốt để sản xuất điện tại Mỹ đã lập mức cao kỷ lục trong tuần này để đáp ứng nhu cầu của thiết bị điều hòa nhiệt độ.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo tại Trung Quốc, các nhà máy điện đang đốt nhiều than hơn để đáp ứng nhu cầu điện khiến nước này tiến tới trở thành quốc gia phát thải nhiều CO2 nhất thế giới trong năm nay.

Nhu cầu nhiên liệu hóa thạch để sản xuất điện đang nuôi dưỡng cái IEA mô tả là “vòng luẩn quẩn” làm tăng nhiệt độ thế giới. Khi các đợt nắng nóng ngày càng nhiều và khắc nghiệt hơn, nhu cầu đối với nhiên liệu hóa thạch cũng lớn hơn và làm tăng thêm lượng khí thải nhà kính vốn là nguyên nhân làm tăng nhiệt độ cực đoan trên khắp thế giới.

Các mạng lưới điện trên thế giới vẫn còn quá phụ thuộc vào khí đốt và than đá. Điều này làm phức tạp thêm nỗ lực của các chính phủ trong việc giảm dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

Bất chấp những cam kết về khí hậu, các chính phủ phải đối mặt với yêu cầu cấp bách là ngăn chặn tình trạng mất điện và bảo vệ con người khỏi các điều kiện thời tiết cực đoan.

Ông Jason Bordoff, Giám đốc sáng lập của Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu tại Đại học Columbia, cho biết nhu cầu năng lượng dự kiến sẽ ngày càng cao hơn khi nhu cầu làm mát tăng lên.

Vấn đề này có thể trầm trọng hơn khi những người nghèo trên thế giới cũng tăng cường hệ thống làm mát. IEA tuần trước cho hay chỉ 1/10 trong số 2,8 tỷ người sống ở những khu vực nóng nhất trên thế giới đã có điều hòa nhiệt độ. Do đó, có nguy cơ hữu hình về khả năng gia tăng nhu cầu năng lượng mới và lượng khí thải nhà kính ở các nước đang phát triển.

Hồi tháng Ba, IEA cho biết năm 2022, gần 1/5 lượng khí thải CO2 toàn cầu tăng lên là do nhu cầu năng lượng tăng trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Báo cáo của cơ quan này về lượng khí CO2 đã kết luận rằng các đợt nắng nóng mùa Hè là lý do chính khiến Mỹ và Trung Quốc, hai quốc gia phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới, đã không giảm được lượng khí thải của họ trong năm. Tại Mỹ, tiêu thụ khí đốt để làm mát các tòa nhà tăng cao khi nhu cầu điện lên đến đỉnh điểm.

Nhiệt độ bề mặt nước ở Vịnh Manatee, bang Florida (Mỹ) lên tới 101,1 độ F – khoảng 38,4 độ C. (Ảnh: WOWT/TTXVN)

Tổ chức Khí tượng Thế giới tuyên bố tháng Bảy là tháng nóng nhất được ghi nhận và xu hướng của năm ngoái đang tái xuất hiện. Thời tiết nóng bức của mùa Hè đang tấn công các khu vực của Mỹ, khiến nhu cầu khí đốt tại các nhà máy điện của nước này ngày 26/7 phá vỡ kỷ lục được thiết lập chỉ một năm trước – và sau đó lại phá kỷ lục này vào ngày 27/7, tăng 3,6% trong một ngày lên hơn 52 tỷ feet khối, theo S&P Global Commodity Insights. Ước tính sơ bộ cho thấy mức sử dụng vào ngày 28/7 có khả năng cao thứ hai từ trước đến nay.

Kể từ cuối tháng 5/2023 ở Trung Quốc, nắng nóng đã góp phần thúc đẩy nhu cầu nhiệt điện than tăng mạnh ở một số khu vực ven biển đông dân cư nhất của Trung Quốc. IEA cho biết nhu cầu than của Trung Quốc đã tăng hơn 5% trong nửa đầu năm nay. Nhu cầu than trên toàn thế giới trong nửa đầu năm 2023 đã tăng 1,5% so với mức kỷ lục của năm ngoái. Cơ quan này chỉ ra việc sử dụng than có thể sẽ giảm vào cuối năm, nhưng điều đó sẽ phụ thuộc vào thời tiết.

IEA nhận xét khoảng 10 quốc gia chứng kiến nhu cầu điện lập kỷ lục trong hai tháng qua. Các nhà phân tích của Goldman Sach cho biết các nước đó có Ấn Độ – nước tiêu thụ than lớn thứ hai thế giới và Nhật Bản – quốc gia đang sử dụng khí đốt để đối phó với nhiệt độ nóng nực của mùa Hè.

Ông Robbie Orvis, Giám đốc cấp cao về thiết kế chính sách năng lượng tại Tổ chức tư vấn Energy Innovation, cho rằng: “Nếu chúng ta không tăng tốc sử dụng năng lượng sạch, điều này sẽ tiếp tục xảy ra và sẽ trở nên tồi tệ hơn trong tương lai. Nhiên liệu hóa thạch không phải là lối thoát.”

Tại Mỹ, sự phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên đã trở thành tâm điểm của các cuộc tranh luận về chính sách biến đổi khí hậu và năng lượng. Những người bảo thủ và một số người theo chủ nghĩa ôn hòa ủng hộ khí đốt vì Mỹ có nguồn dự trữ dồi dào và khí đốt khi đốt cháy có lượng khí thải chỉ bằng một nửa so với than đá. Tuy nhiên, các nhà hoạt động khí hậu tích cực hơn cảnh báo rằng quốc gia này sắp đạt đến giới hạn lợi ích mà hệ thống có thể tạo ra và họ cần ngừng đầu tư dài hạn vào khí đốt.

Sự phụ thuộc của Mỹ vào khí đốt đã diễn ra trong 15 năm qua. Việc sử dụng khí đốt đã mở rộng nhanh chóng khi công nghệ mới – khoan thủy lực – cắt giảm chi phí sản xuất trong nước trong khi các cơ quan quản lý tìm cách giảm lượng khí thải độc hại từ các nhà máy than.

Kết quả là mức tiêu thụ khí đốt hàng năm của Mỹ đã tăng gần 50% từ năm 2006 đến năm ngoái, liên tục lập kỷ lục về sản xuất và tiêu thụ, theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA). Theo dữ liệu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ, trong khoảng thời gian đó, lượng khí thải nhà kính của Mỹ đã giảm hơn 14%.

Một phần vì những xu hướng như vậy, một số nhà nghiên cứu khẳng định rằng – ít nhất ở Mỹ – nhiệt độ cực cao chỉ là một câu hỏi hóc búa ngắn hạn, được giải quyết bằng sự phát triển liên tục của năng lượng Mặt Trời và gió không phát thải trên toàn thế giới.

Ông Andrew Dessler, một nhà khoa học tại Đại học Texas A&M, cho biết năng lượng tái tạo đang giúp ích và các yếu tố như tăng dân số và sự giàu có là nguyên nhân gây ra phát thải lớn hơn khí tự nhiên.

Mỹ cũng đã đạt được những bước tiến lớn trong việc bổ sung năng lượng không phát thải, chẳng hạn như gió và Mặt Trời. Mỹ cũng đầu tư thêm thông qua đạo luật chi tiêu khí hậu khổng lồ năm ngoái.

Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) được kỳ vọng rộng rãi sẽ đẩy nhanh sự phát triển đó và cuối cùng là giảm mức tiêu thụ khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, có sự bất đồng rộng rãi về thời điểm điều đó có thể xảy ra, với một số người mong đợi nhu cầu khí đốt sẽ còn mạnh trong nhiều năm tới.

Bà Christi Tezak, Giám đốc điều hành của Công ty nghiên cứu độc lập ClearView Energy Partners, cho rằng không có hệ thống lớn nào thay đổi nhanh như vậy. Nước Mỹ sẽ sử dụng khí đốt trong một thời gian khá dài và gần như chắc chắn là lâu hơn hầu hết các nhóm môi trường mong đợi.

Trong khi đó, nhu cầu về khí đốt và than đá của Mỹ – và lượng khí thải – thậm chí còn bị ràng buộc chặt chẽ hơn với thời tiết. Các nhà khai thác lưới điện có xu hướng sử dụng năng lượng tái tạo trước tiên, bất cứ khi nào có sẵn, vì gió và nắng là miễn phí. Khi nhu cầu tăng lên, họ kêu gọi nhiều nhà máy đốt than và khí đốt hoạt động nhiều hơn.

Ông Glenn McGrath, người đứng đầu nhóm cung cấp điện tại EIA, cho biết: “Hầu hết mọi nơi ở Mỹ, bất kỳ sự gia tăng về nhu cầu điện đều được đáp ứng bằng nguồn tài nguyên hóa thạch.”

Các vùng ở miền Nam, những vùng nóng nhất của đất nước, sử dụng năng lượng để làm mát các tòa nhà thương mại nhiều gấp 6 lần so với những vùng mát nhất của đất nước, theo dữ liệu của EIA.

Khí thải từ nhà máy điện than ở New Haven, Tây Virginia, Mỹ. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Nhiều nhóm môi trường cho rằng nhu cầu mạnh mẽ này càng cho thấy nhu cầu cấp thiết phải loại bỏ nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, một số nhóm đã kết luận rằng những xu hướng này cho thấy không thể loại bỏ nhiên liệu hóa thạch đủ nhanh để giải quyết biến đổi khí hậu. Họ ủng hộ việc gắn các hệ thống thu giữ CO2 vào các nhà máy đốt nhiên liệu hóa thạch hiện có như một cách để giảm lượng khí thải.

Chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đề xuất các yêu cầu có thể khiến nhiều nhà máy điện đốt than và khí đốt, bắt đầu từ những năm 2030, lắp đặt hệ thống thu hồi carbon.

Lực lượng Đặc nhiệm Không khí Sạch, một tổ chức môi trường, cho rằng Mỹ phải bắt buộc thực hiện những thay đổi đó cùng với việc xây dựng hệ thống năng lượng tái tạo nhanh hơn.

Ông Ben Longstreth, người đứng đầu nhóm vận động thu hồi carbon, nhấn mạnh các điều kiện khắc nghiệt khiến các thách thức trở nên khó khăn hơn và con người cần tất cả những công cụ có thể.