Biến đổi khí hậu làm giảm nỗ lực bảo vệ đời sống biển

Nghiên cứu mới của các nhà khoa học thuộc Đại học bang Oregon cho thấy, biến đổi khí hậu đang làm thay đổi trạng thái quen thuộc của các đại dương trên thế giới và tạo ra những môi trường mới có thể làm giảm nỗ lực bảo vệ sinh vật biển tại các khu bảo tồn biển lớn nhất thế giới.

Rùa biển ở Rạn san hô Great Barrier Reef. (Ảnh: Michael Smith ITWP / Shutterstock)

“Chúng tôi đang xem xét khả năng tuyệt chủng của toàn bộ môi trường”, James Watson, phó giáo sư tại Trường Trái đất, Đại dương, và Khoa học Khí quyển thuộc Đại học bang Oregon và là đồng tác giả của bài báo mới công bố trên tạp chí One Earth, cho biết. “Ở một số nơi, môi trường mà chúng ta đang có ngày nay sẽ không còn tồn tại trong tương lai. Chúng ta sẽ không thể đến thăm hoặc trải nghiệm chúng. Đó là một tổn thất lớn về môi trường, văn hóa và kinh tế mà không gì có thể bù lại được”.

Phân tích của các nhà nghiên cứu về các kịch bản khí hậu cho thấy: 60% đến 87% đại dương dự kiến ​​sẽ trải qua các thay đổi sinh học và hóa học vào năm 2060, chẳng hạn như nhiệt độ nước tăng lên, nồng độ axit cao hơn và thay đổi nồng độ oxy; tỷ lệ biến đổi dự kiến ​​sẽ còn cao hơn, 76% đến 97%, ở các khu bảo tồn biển rất lớn như Công viên Rạn san hô Great Barrier Reef ở Australia và Khu bảo tồn biển Galapagos ở Ecuador; dự kiến độ pH sẽ sớm gia tăng vào năm 2030. Quá trình axit hóa đại dương sẽ làm giảm lượng carbonat trong nước biển – thứ cần thiết cho các sinh vật biển (chẳng hạn như san hô và động vật thân mềm như hàu) phát triển vỏ và bộ xương của chúng.

Các khu bảo tồn ‘đánh mất’ sinh vật cần bảo tồn

“Các đặc tính như nhiệt độ, nồng độ axit và oxy xác định một phần diện mạo nhất định của đại dương. Đối với cả tôi và James, đại dương nơi chúng tôi đã lớn lên có lẽ sẽ chỉ còn trong ký ức và không tồn tại nữa khi đến đời con cháu chúng tôi”, Steven Mana’oakamai Johnson, tác giả chính của nghiên cứu chia sẻ về ý tưởng bắt đầu bài báo.

Lấy trạng thái đại dương trong 50 năm qua làm thước đo độ ổn định, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một số mô hình khí hậu để xem sáu biến ảnh hưởng đến trạng thái đại dương có thể thay đổi như thế nào khi hành tinh ấm lên. Họ đã sử dụng ba kịch bản nóng lên với mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng. “Trong cả ba kịch bản, trạng thái ở hơn một nửa đại dương sẽ khác biệt đáng kể so với những trạng thái đã xảy ra trong 50 năm qua.”, Johnson cho biết.

Phần lớn sự thay đổi xảy ra ở hai thái cực của đại dương: vùng nhiệt đới và vùng Bắc Cực. Không chỉ những nơi ấm áp nhất mới xảy ra ​​tình trạng ấm lên, mà cả những nơi lạnh nhất, như Bắc Cực, cũng không còn lạnh như trước nữa. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng hầu hết những thay đổi đó sẽ xảy ra vào năm 2060, mặc dù hầu hết sự thay đổi về độ pH, hoặc nồng độ axit, dự kiến ​​sẽ xảy ra sớm hơn nhiều vào cuối thập kỷ này.

Các nhà khoa học cũng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt hơn đối với các khu bảo tồn biển lớn (cụ thể là 28/29 khu) – nơi được thiết kế để bảo tồn các loài bị đe dọa và các môi trường sống quý hiếm như các rạn san hô trên khắp thế giới. Khi điều kiện đại dương thay đổi, các loài động vật trong các khu bảo tồn đó có khả năng tìm kiếm những địa điểm khác thuận lợi hơn cho việc sinh tồn của chúng.

Theo Johnson, phát hiện này đã vẽ ra bức tranh tương lai về những gì có thể xảy ra khi hành tinh tiếp tục ấm lên. Nghiên cứu cũng cung cấp thông tin quan trọng cho các cộng đồng, các nhà hoạch định chính sách và nhà quản lý khu bảo tồn về cách mà trạng thái đại dương có thể thay đổi và làm thế nào để giải quyết những thay đổi đó.

“Ví dụ, cá ngừ phát triển mạnh trong một số điều kiện đại dương. Nếu nước biển quá ấm, cá ngừ có thể di chuyển đến khu vực khác”, Johnson nói. “Nếu đất nước của bạn phụ thuộc vào cá ngừ để làm thực phẩm hoặc sinh kế, thì điều đó sẽ gây ra hậu quả gì? Hoặc nếu bạn là người quản lý một khu bảo tồn, và bạn đang bảo vệ một loài không còn trong khu vực đó, bạn sẽ làm gì?”