5 thách thức cản trở thu hút đầu tư vào nông nghiệp Tây Bắc

Thu hút đầu tư là mục tiêu chung của tất cả địa phương, khu vực dựa trên tiềm năng, mục tiêu và định hướng phát triển. Với Tây Bắc, tuy là vùng có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, song đầu tư vào nông nghiệp Tây Bắc lại khá èo uột.

Tiềm năng bị bỏ ngỏ vì vướng nhiều thách thức

Không chỉ là vùng có nguồn tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản phong phú để phát triển kinh tế tổng hợp, Tây Bắc còn có diện tích đất lâm nghiệp lớn nhất cả nước với trên 8 triệu ha và là vùng có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái. Đây cũng là thế mạnh để Tây Bắc phát triển lâm nghiệp hàng hóa. Ngoài ra, Tây Bắc còn có lợi thế về địa hình, khí hậu để phát triển các mô hình nông nghiệp đặc sản hoặc nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao…

Đáng chú ý là khu vực này còn được Đảng và Nhà nước quan tâm với nhiều chính sách ưu đãi. Đầu tư của Nhà nước cho Tây Bắc với số lượng tương đối lớn thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và phát triển dân tộc thiểu số cùng nhiều đầu tư theo các chương trình mục tiêu và lồng ghép với đầu tư của nhiều chương trình, dự án thực hiện trên địa bàn. Đặc biệt, ngoài đầu tư của Nhà nước, Tây Bắc còn huy động được sự trợ giúp của nhiều tổ chức quốc tế cùng chung sức phát triển kinh tế – xã hội.

Bản thân các tỉnh Tây Bắc trong thời gian gần đây cũng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động sự tham gia và đầu tư của khu vực doanh nghiệp vào phát triển kinh tế – xã hội toàn vùng thông qua một số hoạt động kêu gọi và xúc tiến đầu tư quy mô. Hoạt động hỗ trợ của doanh nghiệp với Tây Bắc nhìn chung được thực hiện qua ba hình thức chính: (i) doanh nghiệp dành một phần vốn nhằm hỗ trợ địa phương trong triển khai các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và xóa đói giảm nghèo như phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, cấp nước sinh hoạt…; (ii) doanh nghiệp đầu tư vào các dự án phát triển tại vùng Tây Bắc để hình thành chuỗi giá trị và ngành hàng mới, thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng và liên kết Tây Bắc với thị trường cả nước và thị trường nước ngoài; (iii) các ngân hàng, tổ chức tài chính đẩy mạnh việc cho vay vốn tới các tổ chức, cá nhân trong vùng để đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh theo lợi thế so sánh của vùng, đồng thời cũng qua đó phát huy cơ chế thị trường để khai thác nội lực của địa phương.

Về hệ thống cơ sở hạ tầng, Tây Bắc cũng đang từng bước hoàn thiện và phát triển, đặc biệt là giao thông. Các trục giao thông chính đã được phát triển để kết nối các tỉnh với nhau và với vùng xuôi. Trong tương lai, khi thực hiện việc kết nối toàn vùng Tây Bắc và giữa Tây Bắc với các nước láng giềng qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy, hoạt động giao lưu hàng hóa sẽ thuận lợi hơn và tạo cơ hội lớn cho thu hút đầu tư vào phát triển vùng. Ngoài hệ thống giao thông, việc phát triển mạnh hệ thống thông tin liên lạc trong vùng cũng giúp hạn chế những bất lợi về địa lý khép kín và đẩy mạnh kết nối Tây Bắc với bên ngoài.

Tuy nhiên, những tiềm năng và thuận lợi kể trên vẫn chưa đủ mạnh để hối thúc nông nghiệp Tây Bắc cất cánh bởi song hành với đó là những thách thức cố hữu mà khu vực trọng yếu này chưa thể khắc phục trong một sớm một chiều.

Thứ nhất, mặc dù hạ tầng giao thông đã được phát triển mạnh trong những năm qua nhưng nhìn chung vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng như nhu cầu của nhà đầu tư. Hạ tầng yếu kém vẫn là nguyên nhân chính đẩy chi phí kinh doanh lên cao, làm giảm năng lực cạnh tranh và không khuyến khích doanh nghiệp tìm đến đầu tư.

Thứ hai, sản xuất nông, lâm nghiệp toàn vùng vẫn chủ yếu dựa vào phương thức canh tác truyền thống; sản xuất hàng hóa chậm phát triển và chưa có nhiều mô hình sinh kế bền vững. Việc thiếu vắng những mô hình kinh doanh nông, lâm nghiệp hiệu quả ở cơ sở một mặt chưa tạo được tiền đề để khai thác lợi thế và phát triển sinh kế bền vững trong nông thôn, mặt khác chưa tạo được động lực để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nhằm hình thành nên chuỗi giá trị hàng nông sản, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò là tác nhân đầu tàu lôi kéo các tác nhân khác và thúc đẩy nông dân liên kết với nhau.

Thứ ba, nguồn nhân lực tại chỗ còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; năng lực để tiếp thu, sử dụng tri thức, sử dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh và đời sống còn thấp. Hiện nay còn có sự chênh lệch lớn về lao động đã qua đào tạo của vùng Tây Bắc với các vùng khác. Bằng chứng là tỷ lệ lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên của vùng mới chiếm gần 6% trong khi vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng ở mức 11-13%, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, tỷ lệ này lên tới 20%. Ngoài ra, một vấn đề khác của lao động nông thôn Tây Bắc là di cư tự do. Trong thập kỷ vừa qua, có khoảng gần 15 nghìn hộ với trên 76,6 nghìn nhân khẩu di cư tự do, chủ yếu là vào khu vực Tây Nguyên. Đáng chú ý là trong một vài năm gần đây lại xảy ra tình trạng di cư ngược và điều này làm gia tăng trầm trọng hơn tình trạng phá rừng, ảnh hưởng nhiều đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và cả môi trường đầu tư kinh doanh toàn vùng.

Thứ tư, việc sử dụng các nguồn tài nguyên đất đai, rừng, khoáng sản còn chưa hợp lý, nhiều nơi xảy ra tình trạng khai thác trái phép hoặc có phép nhưng không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên và phát triển bền vững.

Thứ năm, liên kết kinh tế nội vùng và liên kết ngoại vùng còn nhiều bất cập, các tỉnh trong vùng còn tập trung nhiều cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế riêng từng tỉnh mà chưa chú trọng đúng mức việc liên kết và khai thác lợi thế chung của khu vực. Cơ chế chính sách thu hút đầu tư nói chung và đầu tư vào nông nghiệp nói riêng còn chưa thỏa đáng và hạn chế trong việc giúp đỡ doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu khác của nhà đầu tư về thủ tục hành chính cũng như tiếp cận tốt hơn các nhân tố sản xuất (đất đai, lao động, vốn, khoa học công nghệ) cùng thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm hình thành nên chuỗi giá trị hàng nông sản cũng như để doanh nghiệp làm tốt vai trò đầu tàu dẫn dắt trong chuỗi giá trị đó.

Ảnh minh họa: PanNature

Giải  pháp thúc đẩy thu hút đầu tư vào nông nghiệp Tây Bắc

Để thu hút đầu tư vào nông nghiệp nói chung, nhất là đầu tư vào vùng còn có nhiều điều kiện khó khăn như Tây Bắc, cần đặc biệt chú ý tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và đáp ứng tốt các yêu cầu của nhà đầu tư để họ yên tâm bỏ vốn. Điều này không chỉ giới hạn trong cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và các dịch vụ công liên quan mà quan trọng hơn là cần có các chính sách ưu đãi và hỗ trợ nhà đầu tư, giúp hình thành và thúc đẩy các chuỗi giá trị, mạng sản xuất hàng hóa nông sản thế mạnh của vùng thông qua liên kết giữa các tỉnh trong vùng cũng như liên kết Tây Bắc với cả nước và thị trường thế giới. Để giải quyết được vấn đề này, cần tập trung làm tốt những nhiệm vụ sau:

Hoàn thiện việc tạo hành lang pháp lý và định hướng cho hoạt động đầu tư vào nông nghiệp

  • Các tỉnh trong vùng Tây Bắc cần hợp tác với nhau để xây dựng và hoàn thiện danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Muốn vậy, cần hoàn thiện công tác quy hoạch, định hướng cho hoạt động đầu tư vào nông nghiệp của vùng nhằm phát huy lợi thế so sánh, không huy động đầu tư bằng mọi giá, không đánh đổi môi trường lấy đầu tư, khuyến khích các đầu tư liên quan đến sản xuất nông nghiệp thân thiện, ứng phó tốt với BĐKH.
  • Công tác quy hoạch phải đi trước, bám sát định hướng chiến lược phát triển của vùng dựa trên lợi thế về lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thủy sản nước lạnh, phát triển cây đặc sản, du lịch sinh thái… Mỗi tỉnh cần chi tiết hóa các định hướng chiến lược phát triển chung đó, tránh tình trạng thi nhau ưu đãi thuế, đất đai…, làm thất thu ngân sách và dẫn đến tình trạng các địa phương cạnh tranh nhau về ưu đãi tài nguyên và nguồn lao động. Mặt khác, công tác quy hoạch phải kết hợp đồng bộ giữa công nghiệp, dịch vụ – nông nghiệp, thành thị – nông thôn vì không thể tách rời nông nghiệp, nông thôn với bộ phận còn lại của nền kinh tế. Một khi quy hoạch đã được thống nhất thì cần thông tin rộng rãi để người dân và nhà đầu tư nắm được, đồng thời duy trì quy hoạch ổn định để nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào đầu tư.
  • Các tỉnh trong vùng cần tiến hành rà soát để kiến nghị bổ sung các địa bàn thực sự khó khăn, ít có dự án đầu tư, ít có doanh nghiệp, đồng thời đề nghị bổ sung, sửa đổi danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo định hướng khuyến khích phát triển nông nghiệp thân thiện với môi trường, nông nghiệp công nghệ cao, phát triển chuỗi giá trị hàng nông sản, các dự án xử lý vệ sinh môi trường nông thôn.

Hoàn thiện chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

  • Kiến nghị Nhà nước tăng lượng vốn ngân sách đầu tư vào kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; huy động nhiều nguồn vốn tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống kết cấu tầng nông thôn như đường giao thông nông thôn, công trình thủy lợi nhỏ phù hợp với điều kiện của vùng…
  • Nhà nước có các quy định về hỗ trợ mạnh hơn đối với cấp huyện và xã về đầu tư cơ sở hạ tầng (đường giao thông, thủy lợi, điện, cấp nước…), các vùng nông nghiệp sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, khu chăn nuôi tập trung, các cụm công nghiệp, làng nghề nông thôn.
  • Hình thành cơ chế mới theo hướng tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, nhất là cấp xã, huyện nhằm khuyến khích các địa phương tạo điều kiện và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng trên địa bàn.
  • Nhóm giải pháp thu hút đầu tư được nhiều chuyên gia coi là “trúng” nhất để tạo sức mạnh thu hút đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chính là hình thành các chương trình đặc thù thông qua các dự án quy mô nhỏ, phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.

Hoàn thiện các chính sách ưu đãi nhà đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn

  • Các ưu đãi về đất đai cần được thực hiện theo hướng ưu đãi trên cơ sở gắn lĩnh vực đầu tư với địa bàn đầu tư, không tách rời lĩnh vực ưu đãi đầu tư với địa bàn đầu tư như một số chính sách hiện hành; thực hiện chính sách ưu đãi cao nhất về thu tiền sử dụng đất nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp.
  • Cần có chính sách cụ thể về khuyến khích tích tụ ruộng đất để nông dân phát triển kinh tế trang trại, đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Kiến nghị nâng hạn mức giao đất nông nghiệp đối với đất trồng cây hàng năm, đất rừng sản xuất.
  • Khuyến khích phát triển quyền sử dụng đất nông nghiệp theo cơ chế thị trường, một mặt tạo điều kiện tích tụ ruộng đất vào tay các cá nhân, tổ chức chuyên làm nông nghiệp hàng hóa, một mặt tạo cơ hội thu hút bớt lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực phi nông nghiệp khác.
  • Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Riêng đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp tại địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị tăng thời gian miễn thuế và áp dụng mức thuế suất thấp hơn cho suốt thời gian hoạt động còn lại của dự án.
  • Nghiên cứu đẩy mạnh hình thức cho vay theo chuỗi giá trị hàng nông sản, gắn vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp cũng như các tác nhân khác trong chuỗi giá trị hàng nông sản với nguồn vốn vay và hiệu quả sử dụng vốn vay. Đẩy mạnh các hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt với các tổ chức tín dụng trong thực thi các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn.
  • Củng cố hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ở nông thôn và phát triển các hình thức tín dụng nhỏ trong nông thôn nhằm tạo ra kênh huy động và cho vay hiệu quả ở nông thôn. Tăng cường xã hội hóa hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa ngân hàng cho vay và các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể ở nông thôn.
  • Dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi để khuyến khích các định chế tài chính hiện có trong nông thôn triển khai mạnh mẽ việc cho vay với mục đích phát triển nông nghiệp, nông thôn.
  • Hỗ trợ công tác theo dõi, phân tích thông tin thị trường và cung cấp thông tin kịp thời cho nhà đầu tư; hướng dẫn và hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp áp dụng các quy trình sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế (ISO, HACCP, GAP…).
  • Nâng cấp cơ sở hạ tầng và dịch vụ thương mại nhằm tạo điều kiện cho thương mại nông sản. Quy hoạch xây dựng hệ thống các chợ đầu mối tiến đến xây dựng trung tâm thương mại nông sản vùng gắn với sản xuất hàng hóa lớn; nâng cấp các chợ nông thôn truyền thống thuận lợi cho tiêu thụ nông sản nhỏ lẻ; hỗ trợ các tổ chức kinh tế hoặc tư nhân có cơ sở thu mua tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp.
  • Cung cấp tín dụng ưu đãi để các doanh nghiệp thu mua kịp thời nông sản cho nông dân trong vụ thu hoạch.

Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ nhà đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp Tây Bắc

  • Trong điều kiện nguồn nhân lực Tây Bắc còn hạn chế, cần đẩy mạnh việc hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân gắn với phát triển hệ thống khuyến nông, khuyến lâm và đào tạo chuyển giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và quản lý sản xuất, kinh doanh về thị trường và thông tin.
  • Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ việc làm cho nông dân, nhất là đối với nông dân trong vùng dự án hoặc có đất chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, coi đây là hướng chuyển dịch quan trọng nhằm tăng thu nhập dân cư nông thôn.
  • Xây dựng chính sách khuyến khích thỏa đáng đối với những công trình nghiên cứu trong nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hỗ trợ chi phí chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp, nếu chi phí tạo công nghệ mới có nguồn gốc ngân sách nhà nước thì Nhà nước chỉ thu hồi vốn đã đầu tư, không tính lãi.

Hoàn thiện các biện pháp thúc đẩy đầu tư vào nông nghiệp

  • Tiếp tục phát triển kinh tế hộ theo hướng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Tạo điều kiện cho hộ nông dân dồn điền đổi thửa, cho thuê đất, tích tụ đất, chuyển bớt các hộ làm ăn không hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp sang ngành nghề và sản xuất phi nông nghiệp, áp dụng khoa học công nghệ.
  • Đưa sản xuất trang trại, gia trại chăn nuôi tập trung ra khỏi khu dân cư, hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa, các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu.
  • Khuyến khích thành lập các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực cơ khí nhỏ, chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Mặt khác, cần trợ giúp doanh nghiệp trong tìm kiếm thị trường, kích cầu tiêu thụ hàng hóa ở thị trường trong nước, tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi, tiếp cận đất đai, ứng dụng khoa học công nghệ gắn với các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm.
  • Trợ giúp các doanh nghiệp trong cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp giảm chi phí trong tất cả các công đoạn của quá trình kinh doanh, đặc biệt là trợ giúp công nghệ, hỗ trợ các dịch vụ phát triển kinh doanh và trợ giúp tài chính.
  • Khuyến khích thành lập các hội, hiệp hội ngành nghề là những tổ chức xã hội có tác dụng hỗ trợ nhiều mặt cho doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh.
  • Sắp xếp lại nông, lâm trường theo hướng tổ chức lại các đơn vị làm ăn kém hiệu quả, giao quỹ đất, quỹ tài sản cho Nhà nước để đầu tư cho mọi thành phần kinh tế làm ăn giỏi, ưu tiên giao đất cho nông dân xung quanh khu vực nông, lâm trường, hình thành các khu sản xuất nông nghiệp có quy mô hàng hóa lớn áp dụng công nghệ cao.
  • Đẩy mạnh phát triển kinh tế hợp tác trong nông thôn nhằm liên kết, phối hợp các hộ gia đình, các trang trại, các hộ tiểu thương nhỏ lẻ trong nông thôn hiện nay thành các tổ chức hợp tác, các hiệp hội, giúp tăng cường quy mô sản xuất, thay đổi chất lượng quản lý và đầu tư của nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tăng cường liên kết sản xuất của nông hộ với doanh nghiệp và thị trường. Cần phân biệt rõ chính sách cho hợp tác xã thuần túy, phục vụ cộng đồng và hợp tác xã hoạt động như doanh nghiệp.
  • Duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư hiện hành đối với các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhanh chóng xây dựng kế hoạch và chương trình vận động đầu tư cụ thể ở trong nước và ngoài nước, tập trung vào các ngành/dự án và đối tác đầu tư trọng điểm cần thu hút đầu tư nước ngoài.

Đẩy mạnh liên kết kinh tế vùng trong thu hút đầu tư vào nông nghiệp

  • Liên kết hướng tới tối đa hóa lợi ích của toàn vùng, phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội và các quy hoạch phát triển ngành. Trong trường hợp có mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên tham gia thì lợi ích tổng thể của toàn vùng sẽ là tiêu chí quan trọng để đưa ra quyết định cuối cùng.
  • Bên cạnh các hình thức liên kết tự nguyện, cần có liên kết mang tính bắt buộc, nhất là các lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn như các công trình hạ tầng, công trình phúc lợi chung hoặc đối với một số lĩnh vực mang tính tổng hợp, phức tạp như bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Điểm mấu chốt là tạo sự liên kết giữa các địa phương và tạo ra được “tài sản chung” để các địa phương cùng khai thác và hưởng lợi, đồng thời xây dựng mạng lưới hạ tầng vùng đồng bộ để tạo điều kiện cho khả năng thành công của liên kết vùng.
  • Rà soát, thiết lập và mở rộng quan hệ liên kết giữa các địa phương trong vùng để ngăn ngừa và khắc phục tình trạng khép kín trong quy hoạch và thực hiện quy hoạch của mỗi địa phương. Trong quy hoạch mỗi địa phương, cần quy định rõ mục tiêu, nội dung, hình thức và đối tác liên kết chủ yếu.
  • Nghiên cứu xây dựng cơ chế điều phối liên kết vùng. Mặc dù hiện nay Việt Nam đang có ba Ban chỉ đạo cho ba vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Ban chỉ đạo tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm nhưng đây là các cơ quan tham mưu về phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng chứ chưa phải là cơ quan quyền lực chỉ đạo điều phối các hoạt động liên kết. Vì vậy, có thể nghiên cứu  thành lập tổ chức điều phối vùng ở các vùng sinh thái, qua đó giúp giải quyết các vấn đề có tính liên tỉnh và hỗ trợ các nhà đầu tư được tốt hơn trong khai thác lợi thế chung của toàn vùng.
  • Lưu Đức Khải, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương

Tài liệu tham khảo

  1. Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Dân tộc (2016): Kỷ yếu hội thảo Nâng cao hiệu quả an sinh xã hội vùng Tây Bắc.
  2. Lê Anh Vũ và cộng sự (2015): Liên kết nội vùng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên. Đề tài KH&CN phục vụ phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên KHCN-TN3/11-15
  3. Lưu Đức Khải (2015): Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào nông thôn ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
  4. Ngân hàng thế giới (2016): Tạo thuận lợi cho kinh doanh nông nghiệp.