Đề nghị Quốc hội giám sát tối cao về phòng, chống biến đổi khí hậu

ThienNhien.Net – Sáng 8/10, tiếp tục phiên họp thứ 32, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống biến đổi khí hậu (BĐKH) ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Theo Báo cáo, BĐKH tác động đến ĐBSCL rất phức tạp, có sự khác nhau giữa các địa phương ngay trong một tỉnh, thậm chí trên cùng một huyện, xã, một khu vực ven biển. Có nơi mối đe dọa chủ yếu là sạt lở như ở Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau cũng có nơi chịu ảnh hưởng lớn từ nước biển dâng và triều cường như TPHCM, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ…

Ảnh: ThienNhien.Net
Ảnh: ThienNhien.Net

Sẽ tiếp tục diễn biến bất thường

“Xu thế thay đổi khí hậu và thiên tai ở ĐBSCL trong 3 thập kỷ sắp tới diễn biến bất thường”, ông Phan Xuân Dũng nhấn mạnh. Nhiều vùng bảo tồn đất ngập nước như Tràm Chim, U Minh Thượng, Láng Sen, Trà Sư, Hà Tiên, Vồ Dơi, Bãi Bồi, Đất Mũi, Lung Ngọc Hoàng sẽ bị đe dọa. Diện tích đất canh tác nông nghiệp, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản sẽ bị thu hẹp, năng suất và sản lượng sẽ suy giảm ở vùng Tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu. Tài nguyên rừng, đất, nước, sinh vật hoang dã, khoáng sản (than bùn, cát, đá xây dựng,…) sẽ bị xâm lấn và hủy hoại. Ngoài những tác động của BĐKH, ĐBSCL có thể chịu sự tác động lớn của việc xây dựng các đập thủy điện trên sông Mê Kông cần được nghiên cứu, đánh giá và dự báo cụ thể.

Biến đổi khí hậu làm cho nền nhiệt độ trung bình tăng, ảnh hưởng đến các hệ sinh thái tự nhiên, cây trồng, vật nuôi, làm tăng khả năng phát triển sâu bệnh, gia tăng sức ép lên con người, các bệnh về đường ruột, virut tăng, làm giảm khả năng đề kháng. Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô vùng ĐBSCL sẽ tăng từ 33-35°C đến 35-37°C. Khu vực bị tác động chủ yếu của nhiệt độ là các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang. ĐBSCL, duyên hải miền Trung và hạ lưu sông Đồng Nai là các vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nhất của nước biển dâng, làm tăng diện tích bị xâm nhập mặn như ở vùng Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Bán Đảo Cà Mau diện tích nhiễm phèn đang ngày càng rất lớn. Tình trạng ngập lụt Hậu Giang thời gian qua có những biểu hiện bất thường, khi lũ thượng nguồn từ An Giang chưa về mà vùng trũng Phụng Hiệp đã ngập nặng.

Bên cạnh đó, diện tích đất canh tác ngày bị thu hẹp, gia tăng xói lở bờ biển, xói lở bờ sông thuộc lưu vực sông Tiền, sông Hậu (hiện nay thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cách sông Hậu khoảng 30m, mỗi năm bờ Sông Hậu bị sạt lở mất hơn 1m/năm; tỉnh Kiên Giang có chừng 100 km bờ biển cũng đang bị sạt lở nghiêm trọng), ảnh hưởng lớn đến phát triển KT-XH, hạ tầng giao thông, đô thị, khu dân cư, hệ thống thủy lợi, sản xuất nông nghiệp, cuộc sống của người dân, các HST ven biển; cửa sông ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Hậu Giang.

Ngoài những tác động trực tiếp còn có những tác động do những nguyên nhân gián tiếp như: nhu cầu phát triển kinh tế, an ninh lương thực và áp lực của dân số gia tăng của các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Kông, khai thác cát quá mức ở các dòng sông, sử dụng nước ngầm quá mức cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Các đập thủy điện, công trình chuyển nước sông Mê Kông cho những vùng khô hạn, sự hình thành các khu công nghiệp, khu dân cư dọc theo hai bờ sông Mê Kông sẽ làm cho dòng chảy sông Mê Kông trở nên bất thường, mùa khô ít nước, dễ ngập úng về mùa mưa, tình trạng xâm nhập mặn và tác động của biến đổi khí hậu càng thêm nghiêm trọng cho vùng ĐBSCL.

Đưa mục tiêu phòng, chống biến đổi khí hậu vào kế hoạch năm

Trong khi đó, Đoàn giám sát nhận định, mặc dù số lượng  các văn bản pháp luật liên quan đến BĐKH và NBD từ Trung ương đến địa phương khá nhiều; song đã xuất hiện một số chồng chéo, trùng lắp, hiện tượng chưa đánh giá kết quả thực hiện văn bản hiện hành thì đã ban hành văn bản mới, làm cho việc phân công, phân cấp cơ quan đầu mối, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp chưa thực sự rõ ràng, mạch lạc, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.

Đoàn giám sát kiến nghị cân nhắc đề xuất của Chính phủ là ban hành Nghị quyết của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật ứng phó với BĐKH. Theo đó, nâng nội dung giám sát chuyên đề này thành chương trình giám sát tối cao của Quốc hội. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chủ trì, phối hợp với các tỉnh vùng ĐBSCL nghiên cứu, rà soát các dự án về ứng phó với BĐKH và trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án, công trình quan trọng quốc gia về ứng phó với BĐKH ở ĐBSCL (theo nghị quyết số 49/2010/QH12, ngày 19/6/2010 của Quốc hội).

Một đề xuất khác, vẫn theo ông Phan Xuân Dũng, là nghiên cứu đưa nội dung về ứng phó với BĐKH là một trong các nội dung của Nghị quyết phát triển KT-XH hằng năm và năm (05) năm; lồng ghép các vấn đề về ứng phó với BĐKH trong quá trình xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh liên quan; hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về BĐKH… Nâng cao chất lượng thẩm tra, phân bổ ngân sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cho các hoạt động ứng phó với BĐKH; đổi mới cơ chế tài chính và xây dựng cơ chế phối hợp trong việc sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước cho ứng phó với BĐKH có trọng tâm, trọng điểm, đạt hiệu quả cao, đặc biệt ưu tiên các dự án cấp bách, không thể trì hoãn…

Vùng ĐBSCL gồm 1 thành phố trực thuộc trung ương và 12 tỉnh nằm ở cuối dòng chảy của sông Mê Kông trước khi đổ ra Biển Đông và một phần nhô ra Vịnh Thái Lan. Đây là một vùng đất thấp và bằng phẳng, cao độ trung bình phổ biến ở nhiều nơi từ 1,0 – 2,0 m so với mực nước biển, được bồi tụ bởi phù sa của sông Mê Kông. Vùng ĐBSCL có diện tích hơn 4 triệu ha (40.548,2 km²), trong đó khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (chiếm 65%).