Thủy điện Mê Kông là tất yếu?

ThienNhien.Net – Trước khi số phận của con đập Xayaburi của Lào được quyết định tại cuộc họp cấp bộ trưởng các nước thành viên Ủy hội sông Mê Kông tới đây, chính phủ Lào đã gửi tới chính phủ Việt Nam Báo cáo tuân thủ đối với dự án thủy điện Xayaburi do công ty Poyry Enerergy AG thực hiện theo hợp đồng tư vấn ký với chính phủ Lào. Cùng với các cơ quan và tổ chức khác, mới đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có công văn gửi ý kiến về Báo cáo này đến Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam.

Không chỉ đưa ra những nhận xét về Báo cáo của Poyry, công văn của Bộ còn trình bày một số đánh giá, đề xuất liên quan đến dự án đập Xayaburi và các công trình thủy điện dòng chính Mê Kông nói chung. Nhận thấy đánh giá của Bộ có một số điểm khác biệt so với các ý kiến khoa học đưa ra trước đó, ThienNhien.Net đã có cuộc trao đổi với thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện – Trưởng nhóm tư vấn Quốc gia về Đánh giá môi trường chiến lược 12 đập thủy điện dòng chính Mê Kông – nhằm làm sáng tỏ điều này, cung cấp thêm cho độc giả một cái nhìn nhiều chiều.

PV: Thưa ông, là người đã tham gia đánh giá các dự án thủy điện đề xuất trên dòng chính hạ nguồn Mê Kông và quy trình tham vấn của dự án Xayaburi, ông đánh giá thế nào về ý kiến của Bộ khi cho rằng “về cơ bản Hồ sơ dự án Xayaburi đã thực hiện theo Hướng dẫn kỹ thuật của Ủy hội sông Mê Kông (MRC), đã xem xét đến ý kiến của các quốc gia ven sông”, trong khi nhiều đánh giá trước đó đều cho rằng điều này đã bị coi nhẹ trong thiết kế dự án?

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Ở đây không rõ là Bộ NN&PTNT tóm tắt lại ý của báo cáo Poyry hay là quan điểm riêng của Bộ. Nhưng dù sao thì quan điểm này là không đúng.

Trong Báo cáo Phúc trình hoạt động tham vấn trước về dự án (Prior Consultation Project Review Report) của MRC đã nói rõ là Thiết kế của dự án chưa phản ánh Hướng dẫn thiết kế ban đầu của MRC hay tiêu chuẩn quốc tế về cách làm tốt nhất.

PV: Bộ nhận định rằng “Đập Xayaburi là đập dâng chỉ có tác dụng điều tiết theo ngày, lại cách xa Việt Nam 2000 km do vậy chế độ dòng chảy sẽ không ảnh hưởng đến Việt Nam”, điều này có đúng không, thưa ông?

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Về ảnh hưởng dòng chảy, có mấy điều cần lưu ý như sau:

Thứ nhất, đập Xyaburi có thời gian lưu nước (water retention) trong 1-2 ngày, đồng nghĩa với việc làm nước về hạ lưu chậm đi 1-2 ngày, bởi vì đập Xayaburi không hoàn toàn là dự án run-of-river (không lưu nước). Trong số 12 dự án dòng chính đề xuất ở hạ nguồn, chỉ có Thakkho thực sự là một dự án run-of-river.

Thứ hai, đập Xayaburi nằm ở hạ lưu đập Pak Beng có thời gian lưu nước 1-1,5 ngày, và Luang Prabang có thời gian lưu nước 2-4 ngày. Vậy nước từ thượng nguồn qua được Xayaburi để đến với hạ lưu phải mất 4 đến 7,5 ngày.

Nghiêm trọng hơn cả là Xayaburi có thể trở thành tiền đề cho 11 dự án còn lại. Cho nên khi xét tác động của Xyaburi phải đặt nó vào tổng thể 12 dự án. Một dự án Xayaburi với nhiều vấn đề như thế (báo cáo ĐTM kém chất lượng, chưa tuân thủ Hướng dẫn thiết kế của MRC, chưa đánh giá tác động xuyên biên giới, đi ngược với đề nghị hoãn 10 năm của Chính phủ Việt Nam cũng đồng thời là đề xuất của Phương án Chiến lược số 2 trong Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thủy điện dòng chính Mê Kông) mà được xây dựng thì đồng nghĩa với việc tất cả các dự án khác trong số 12 đề xuất sẽ được xây dựng. Khi đó tổng thời gian lưu nước của các đập, nghĩa là thời gian nước từ thượng nguồn về Campuchia và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), sẽ chậm đến hơn 1 tháng.  Đơn cử, riêng đập Xanakham với mực nước như năm 1993 có thời gian lưu nước đến 18 ngày. Các đập có thời gian lưu nước thời gian dài kế tiếp là các đập Sambor, Strung Treng, Luang Prabang và Ban Koum.  Sự lưu nước của các đập này sẽ làm đảo lộn thời vụ ở ĐBSCL. Đặc biệt, khi các đập đồng loạt tích nước trong mùa khô, xâm nhập mặn sẽ sâu hơn và làm cho ranh giới mặn dịch chuyển khó đoán khi các đập tích và xả nước.  Chế độ thủy văn của sông Mê Kông lúc đó không còn đo và tính tần suất gì được nữa.

Cuối cùng, 12 dự án này do các nhà đầu tư khác nhau vận hành và không có sự điều phối vận hành, tức là đập dưới sẽ phải đóng để tích nước chờ đập trên xả nước. Đập trên tích đủ nước để phát điện mới xả xuống cho đập kế tiếp tích nước. Trong khi đó, các nhà đầu tư sẽ vận hành đập để tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vì lợi ích của cư dân vùng hạ lưu, cho nên việc phối hợp giữa các nhà đầu tư trong vận hành bậc thang thủy điện này là điều không tưởng.  Các đập thủy điện trong một nước còn chưa làm được điều này.

PV: Dựa trên kinh nghiệm trong quá trình Đánh giá môi trường chiến lược 12 dự án này, theo ông “tác động xấu về giao thông thủy và thủy sản có thể khắc phục bằng việc xây dựng âu thuyền và đường cá đi” hay “các giải pháp quản lý” như đánh giá của Bộ không?

Người dân đánh cá địa phương khu vực đập Pak Mun đã tự đánh giá rằng kể từ khi đóng đập năm 1994, họ cho biết chỉ thấy 2 loại cá gần vị trí đập là Pla hua taek (cá vỡ đầu) là cá bị vỡ đầu khi cố bơi qua cầu thang cá bằng bê-tông và Pla mai mee hua (cá không đầu) là cá đi qua Turbines bị mất đầu. (Ảnh: ThienNhien.Net)

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Công nghệ “cầu thang cá” của Châu Âu chỉ hiệu quả đối với một số rất ít loài cá to, khỏe của Châu Âu và hoàn toàn không phù hợp với sự đa dạng loài cá có kích thước nhỏ hơn của vùng Mê Kông. Cầu thang cá chỉ là cách nhà đầu tư trấn an dư luận mà thôi. Cầu thang cá của đập Pak Mun có chiều rộng 4 mét, cao 15 mét, dài 92 mét, với độ dốc 1:6 được xây dựng thêm vào phút chót để trấn an dư luận. Cứ nhìn vào cầu thang cá của đập Pak Mun ở Thái Lan là có thể thấy rõ điều này.

Về giao thông thủy, dù có âu thuyền thì cũng ảnh hưởng giao thông thủy vì mỗi lần mở âu thuyền là thất thoát nước, nên nhà vận hành đập sẽ chờ cho đủ số lượng tàu thuyền mới mở âu thuyền. Các nhà vận hành đập sẽ ưu tiên tàu thuyền lớn, sẵn lòng trả chi phí cao để qua âu thuyền. Còn người dân sử dụng thuyền nhỏ đi lại trên sông buôn bán, bắt cá hay các hoạt động khác sẽ phải chờ rất lâu để được âu thuyền mở cửa cho đi qua.

PV:  Với rất nhiều tác động tiêu cực đã được cảnh báo, trong khi những khoảng trống kiến thức và những điều thiếu chắc chắn trong đánh giá về bậc thang thủy điện dòng chính cũng đồng thời được thừa nhận, ông có đồng tình với nhận định của Bộ khi cho rằng “khả năng xây đập trên dòng chính vùng hạ du lưu vực sông Mê Kông là xu thế tất yếu” do “lợi ích vô cùng lớn mang lại từ các công trình thủy điện”? 

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Lợi ích từ các đập này đối với Lào và Campuchia chủ yếu là từ doanh thu xuất khẩu điện, nhưng cần nhớ rằng trong 25 năm đầu theo phương thức BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao) thì Lào và Campuchia cũng chỉ được 26-31% doanh thu mà thôi. Đối với Lào thì tiềm năng chi lưu là đủ để phát triển kinh tế ở tốc độ lành mạnh mà không cần đến thủy điện dòng chính.

Thiệt hại đối với Lào và Campuchia, do các dự án này gây ra cũng rất lớn. Trong một lưu vực mà 70% dân số sống ở nông thôn và mức tiêu thụ thủy sản bình quần đầu người cao nhất thế giới thì an ninh thực phẩm và sinh kế là phụ thuộc rất lớn vào tài nguyên thiên nhiên. Nếu năng suất tài nguyên thiên nhiên của lưu vực giảm thì chính Campuchia và Lào chịu rủi ro cao nhất.  Lượng protein từ cá sẽ mất do 12 dự án này tính cho năm 2030 sẽ bằng 110% tổng sản lượng gia súc, gia cầm của Lào và Campuchia hiện nay cộng lại.  Hàng chục triệu người trong lưu vực sẽ bị mất an ninh thực phẩm và sinh kế. Đặc biệt Campuchia sẽ phải giải quyết vấn đề sinh kế và xã hội cho 1,6 triệu người chuyên sống bằng nghề đánh cá.

Vì vậy, nói “khả năng xây đập trên dòng chính vùng hạ du lưu vực sông Mê Kông là xu thế tất yếu” do “lợi ích vô cùng lớn mang lại từ các công trình thủy điện” là chưa đúng. Thực tế, lợi ích từ thủy điện dòng chính là nhỏ hơn tổng thiệt hại, trong khi đó thời gian 25 năm đầu, lợi ích chủ yếu rơi vào túi các nhà đầu tư.

Hơn nữa, Campuchia hiện đang xem xét lại, nếu Campuchia cùng Việt Nam mạnh mẽ phản đối và nếu Lào xem xét lại rủi ro tổn thất lớn cho chính mình so với lợi ích nhỏ trong 25 năm đầu, thì các dự án này không hẳn và không thể là “tất yếu”. Ngoài ra, nếu để đảm bảo an ninh năng lượng thì thủy điện cũng không nhất thiết là “tất yếu” vì năng lượng có thể được đáp ứng bằng nhiều nguồn khác ngoài thủy điện.

PV: Để chuẩn bị cho “trường hợp bất lợi có thể xảy ra xung quanh vấn đề Mê Kông nói chung và công trình thủy điện Xayaburi”, Bộ đã đề xuất một số giải pháp mà Việt Nam cần chủ động tiến hành. Ông đánh giá thế nào về các đề xuất này? Liệu các giải pháp được đưa ra có khả thi và mang lại hiệu quả cần thiết một khi các đập vẫn được xây dựng?

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Danh sách thiệt hại đối với ĐBSCL nếu chuỗi đập thủy điện dòng chính được triển khai là rất dài và không có nhiều biện pháp khả thi để khắc phục. Chẳng hạn, về tác động đối với phù sa: Không có phù sa thì bờ biển Đông sẽ sạt lở ăn vào đất liền, đồng bằng hàng năm sẽ bị sụt lún tự nhiên và sẽ chìm xuống biển nhanh hơn khi cộng hưởng với tác động của nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Không có biện pháp công trình nào có thể khắc phục các tác động này.

Với chất dinh dưỡng cho đất, nếu tăng phân bón để bù cho phù sa thì cũng chỉ có thể khả thi trong thời gian khoảng dưới 10 năm, sau đó dù có tăng phân bón, năng suất lúa vẫn giảm. Điều này đã được nghiên cứu của Dương Văn Nhã của Đại học An Giang chứng minh(*)

Nói về tác động nguồn lợi thủy sản, tổn thất về thủy sản biển do thiếu dinh dưỡng sông Mê Kông mang lại hàng năm và tổn thất thủy sản nước ngọt do cá không thể vượt được các bức tường thành đập thủy điện để sinh sản theo mùa sẽ dẫn đến sự sụp đổ của ngành đánh bắt thủy sản biển, ngành thủy sản nuôi ở ĐBSCL (phụ thuộc vào nguồn cá trắng nội địa và cá biển làm thức ăn) và hàng loạt tác động domino lên các ngành công nghiệp phụ thuộc như chế biến, vận chuyển, thương mại liên quan đến thủy sản, các cảng cá..v.v.  Điều này liệu có thể có giải pháp nào bù đắp nổi?

PV: Với các thiệt hại dự báo không thể khắc phục như vậy, song theo đề xuất thứ 3 và 4 mà Bộ đưa ra thì ta chỉ “kiên quyết đấu tranh nếu các nước thượng lưu thực hiện chuyển nước ra khỏi lưu vực và khi họ “xây dựng công trình, đập thủy điện ngăn sông Tôn Lê Sáp”. Thế còn các đập dòng chính, chẳng lẽ chúng ta không thể và không cần kiên quyết đấu tranh, thưa ông?  

Ths. Nguyễn Hữu Thiện: Trong 12 dự án không có chuyện đắp sông Tôn Lê Sáp. Có lẽ Bộ nắm không vững thông tin. Cái nguy là nằm ở các đập Sambor và Strung Treng. Đập Sambor cao 56 mét, dài 18km chắn ngang các nhánh sông, sẽ tích một khối nước 465 triệu m3 trên một diện tích 620km2, ở cao trình mực nước 40m trên mực nước biển, trong khi ĐBSCL ở cao trình 1-1,5m. Con đập do nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư và vận hành này sẽ khống chế nguồn nước về ĐBSCL và có khả năng gây động đất kích thích.

Việt Nam sẽ chịu rủi ro thiệt hại rất lớn. Nếu Việt Nam không nói ra bây giờ thì sau này sẽ chẳng trách ai được nữa. Cho nên việc Chính Phủ Việt Nam đưa ra yêu cầu hoãn tất cả các công trình thủy điện dòng chính hạ nguồn trong 10 năm để có nghiên cứu sâu hơn là hoàn toàn hợp lý và chúng ta cần phải cung cấp thông tin và phân tích đầy đủ để các quốc gia xem xét lại.

PV: Xin chân thành cảm ơn ông về những chia sẻ đầy tâm huyết này! 

(*) Nghiên cứu tác động đê bao đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường tại một số khu vực có đê bao ở tỉnh An Giang, Dương Văn Nhã (2004)

Bạch Dương (thực hiện)