Rừng ngập mặn Cà Mau: Chuông buồn ngân đến bao giờ? (Kỳ 1)

ThienNhien.Net – Đã có quá nhiều cảnh báo xung quanh việc chặt phá rừng ngập mặn (RNM) ven biển lấy đất nuôi trồng thủy sản (NTTS). Hệ quả của nó làm các thảm thực vật ven biển dần cạn kiệt, diện tích rừng liên tiếp bị mất đi một cách bất hợp pháp và cả hợp pháp. Ngay như con tôm nuôi tại vùng đất này cũng bộc lộ nhiều khó khăn: chậm lớn, năng suất thấp, người nuôi tôm lỗ vốn…Trong khi đó, chính quyền các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang lúng túng trong việc quy hoạch phát triển rừng.

Kỳ 1:  Rưng rưng những cánh rừng tàn
 
Trong vòng 5 năm (2000 – 2005), tại Bạc Liêu lực lượng kiểm lâm đã xử lý 1.462 vụ vi phạm phá rừng. Tại Cà Mau con số này trên 2.000 vụ. Hình thức vi phạm chủ yếu là chặt phá rừng, bao ví nước để lấy đất NTTS. Cho dù chính quyền địa phương và lực lượng kiểm lâm có cố gắng đến đâu trong việc giữ rừng, rừng vẫn mất. Những vệt đất trơ lại gốc mắm, gốc đước khẳng khiu trước gió minh chứng cho những lần tàn phá rừng để lấy đất nuôi tôm và sử dụng vào mục đích khác.

Khoảng trống những cánh rừng

RNM Bán đảo Cà Mau được xác định có 3 loại cá thể chủ yếu: cây mắm, cây đước và cây vẹt. Theo Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau, hiệu quả kinh tế từ những cánh rừng không cao. Cây đước dùng để làm nhà ở, làm củi, hầm than. Không như những cánh rừng già của miền Trung, miền Đông hay vùng miền núi phía Bắc, gỗ là “tài sản” quý giá nhất của rừng. Tại đây cây gỗ thuộc hàng thứ yếu mà chính mặt nước mới là “tài sản” sinh lợi cho những người nhận khoán đất rừng. Vì vậy những hộ dân nhận khoán đất rừng đã làm mọi cách để mặt nước được rộng thêm ra, con tôm được rộng đường bơi trong phạm vi mà họ nhận khoán.

Tại xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu có trên 300 hộ gia đình và 9 tổ chức nhận khoán đất rừng từ năm 2000 với diện tích trên 3.400 ha. Mấy năm qua số diện tích này cứ teo dân theo thời gian nhận khoán.

Ông Nguyễn Minh Thống, Quyền Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình cho biết: “Địa phương chỉ quản lý về mặt hộ khẩu và những vấn đề có liên quan đến dân sinh, còn việc chăm sóc bảo vệ rừng là nhiệm vụ của các anh kiểm lâm. Nhiều khi thấy những cánh rừng bị người dân bao ví nước lại để nuôi tôm, thân cây đước trơ trọ chúng tôi xót lắm, nhưng không thể làm gì được”.

Theo quy hoạch của UBND tỉnh Bạc Liêu, từ chân đê Trường Sơn trở ra biển chỉ được trồng và bảo vệ rừng; từ mé biển trở vào 500 m là rừng phòng hộ ven biển, được bảo vệ nghiêm ngặt.Tuy nhiên, nếu đo từ chân đê ra tới mé biển nhiều nơi chưa đến 500 m,chính vì vậy người dân tác động vào rừng phòng hộ là điều khó trách khỏi.

Sau khi có nghị định số 09/CP của Chính phủ (năm 2001), Bạc Liêu cho phép toàn bộ vùng phía Nam QL1A chuyển đổi từ đất sản xuất kém hiệu quả sang NTTS. Không biết trong quá trình khảo sát thế nào mà trên 210 ha rừng trồng (trên 7 năm tuổi) nằm lọt thỏm vào khu vực được xếp vào “đất sản xuất kém hiệu quả”, vậy là chuyển sang NTTS. Chưa đầy 3 tháng, 210 ha rừng được san bằng, lùi bước cho con tôm sú.

 treemngheo
Trẻ con ven rừng hàng ngày đi bắt cua, tôm kiếm sống. (Ảnh: Nhật Hồ)

Tại Cà Mau, vào trước những năm 80 của thế kỷ trước, cánh rừng của huyện Ngọc Hiển, Năm Căn nhiều người dân “di cư” vào đây bao chiếm đất đai để khai thác thủy sản. Những vạt rừng mất đi từng ngày thay cho bờ bao, cống rãnh, thậm chí là ao đầm. Đến cuối những năm 90 của thế kỷ trước, Cà Mau quy hoạch lại rừng không có cách nào khác hơn là hợp thức hóa cho những người sống trong rừng trước quy hoạch. Những hộ bao chiếm đất rừng giờ đây được gọi là “chủ rừng” một cách nghiễm nhiên.

Loay hoay bài toán tôm – rừng

Năm 1998, tỉnh Cà Mau có chủ trương chuyển com tôm sang “sống” dưới tán rừng. Chủ trương này được gói gọn trong 5 từ “con tôm ôm cây đước”, tức người dân được phép nuôi tôm trong rừng đước. Theo đó, cấm tác động đến cây đước, com tôm được thả lan trong rừng đến con nước thủy triều thì thu hoạch.

Tuy nhiên, đến năm 2001, khi con tôm sú đã xuất hiện tại mảnh đất cuối cùng của tổ quốc thì mọi chuyện trở nên đảo lộn. Trước đây, chủ yếu nuôi tự nhiên. Sản phẩm thủy sản thu được là: tép bạc, tôm đất, tôm thẻ, cua biển, ốc len… tất cả đều do thiên nhiên ban tặng. Người dân chỉ việc dùng dụng cụ để bắt đi bán. Khi con tôm sú (loại tôm nuôi) có mặt thì cách khai thác theo kiểu “săn bắt háy lượm” không tồn tại nữa, thay vào đó là phải nuôi.

Để nuôi được con tôm sú buộc người dân phải bao ví nước, thả giống. Rừng bắt đầu bị chặt phá. Đầu tiên là chặt để làm bờ bao ví nước, sau đó là mở rộng ra kênh mương để có thêm nhiều diện tích mặt nước nuôi tôm. Hậu quả của trương trình này làm những cánh rừng bị tàn phá một cách nhanh chóng hơn. Đứng trước nguy cơ rừng sản xuất có thể bị băm nát vì con tôm, Cà Mau tiếp tục có chủ trương “tách tôm ra khỏi rừng”. Đi đầu trong công tác này là huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Sau quá trình rà soát lại toàn huyện có trên 36.000 ha diện tích đất rừng buộc tách tôm ra khỏi rừng. Thật ra, tách tôm ra khỏi rừng là hình thức sử dụng diện tích đất rừng được giao khoán. Người dân được quyền sử dụng từ 30 – 50% diện tích nhận khoán để NTTS tùy theo diện tích.

Ông Trần Hoàng Chen, Bí thư huyện ủy huyện Ngọc Hiển là người tâm huyết vớí chương trình “tách tôm ra khỏi rừng”. Để thể hiện sự nghiêm minh, ông kỷ luật loạt đảng viên không chấp hành chủ trương này. Chính vì vậy hiện nay mô hình tôm rừng tại Ngọc Hiển được xem là một trong những “kiểu mẫu” của việc trồng, bảo vệ rừng và nuôi tôm. Ông Chen cho biết: “Dân trong rừng hầu hết đều có cuộc sống khó khăn. Muốn giữ được rừng phải làm cho đời sống của người dân khá lên. Để đạt được điều này nhất thiết phải tách tôm ra khỏi rừng mới mong giữ được rừng và đời sống người dân mới khấm khá lên được”.

Tuy nhiên cho đến nay, Cà Mau vẫn chưa hoàn thành chương trình tách tôm ra khỏi rừng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ông Lê Văn Kháng, Phó chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển cho biết: “Chủ trương tách tôm ra khỏi rừng được thực hiện mạnh nhất vào năm 2007. Đến nay có trên 500 hộ thực hiện. Tuy nhiên, cái khó là hầu hết diện tích đã lên bờ bao để nuôi tômvì vậy để đạt được tỉ lệ tôm – rừng theo quy định phải lấp ao tôm từ từ sau đó mớitiến hành trồng rừng. Đây là một việc làm rất tốm kém nhưng phải thực hiện nếu muốn giữ rừng một cách bền vững”.

Để vận động người dân ủi ao tôm trồng rừng, huyện hỗ trợ dân mỗi ha 2 triệu đồng; còn lại người dân tự bỏ tiền ra. Tuy nhiên, không phải ai cũng có một số tiền lớn để làm chuyện mà họ chẳng muốn: thu ngắn diện tích mặt nước để trồng rừng.

Mô hình nào cho cây đước và con tôm “chung sống” hòa bình với nhau trong cùng một đơn vị diện tích các tỉnh BĐCM vẫn chưa tìm ra. Chính vì vậy những khoảng trắng trong rừng vẫn còn đó như thách thức. Dù khai thác rừng để NTTS khá nhiều nhưng đời sống của cư dân ở những cánh rừng ngập mặn không khá so với mặt bằng chung của khu vực.