Ngày 28-4, báo cáo “Thực trạng bình đẳng giới và biến đổi khí hậu tại Việt Nam: Lồng ghép giới trong chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu” đã được công bố tại Hà Nội.
Chương trình do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UNWomen), Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (ISPONRE) phối hợp thực hiện.
Báo cáo mới này cung cấp các phân tích giới về tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đặc biệt trong các ngành nông nghiệp, quản lý nước, quản lý chất thải và năng lượng mà quốc gia ưu tiên. Nhiều chính sách khác nhau cũng được xem xét để xác định những cơ chế nào hiện đang tồn tại để tạo điều kiện cho việc lồng ghép giới trong hoạch định chính sách và thực hiện chương trình.
Vào tháng 9 năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã đệ trình Bản cập nhật Đóng góp do Quốc gia tự quyết định (NDC) cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), trong đó cam kết tăng mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính cho đến năm 2030.
“Quan trọng hơn, đây là lần đầu tiên Việt Nam lồng ghép vấn đề bình đẳng giới và bao trùm xã hội vào bản cập nhật NDC. Việc này đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít những quốc gia trên thế giới coi bình đẳng giới như một nội dung xuyên suốt trong NDC của mình. Tuy nhiên, chúng ta cần nhiều hành động thực tế hơn nữa”, bà Elisa Fernandez, Trưởng đại diện của UN Women tại Việt Nam, cho biết.
Tiến sĩ Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng ISPONRE, cho biết: “Giới và biến đổi khí hậu (BĐKH) là những vấn đề liên ngành cần sự chung tay của các quốc gia và toàn thể xã hội. Báo cáo này có mục đích cung cấp điểm khởi đầu để thúc lồng ghép giới trong chính sách khí hậu ở Việt Nam và góp phần vào thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG5 – Bình đẳng giới và SGD13 – Biến đổi khí hậu. Hiện nay, Việt Nam đang cập nhật Chiến lược quốc gia về BĐKH. Vì vậy, những kết quả trình bày trong báo cáo nghiên cứu này sẽ hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách khi đề cập bình đẳng giới trong chiến lược”.
Một trong những phát hiện chính của báo cáo là nam giới và phụ nữ (PN) có năng lực khác nhau trong tư cách là người sử dụng tài nguyên và đóng góp vào việc thực hiện các chính sách về khí hậu.
Báo cáo lưu ý, trong ngành nông nghiệp, sự phân công lao động theo giới trong ngành và các trách nhiệm khác do PN đảm nhận do các chuẩn mực giới đã ngăn cản họ tham gia tích cực vào việc đưa ra các quyết định trong và ngoài hộ gia đình.
Báo cáo cũng nêu rõ, trong ngành quản lý nước, nhiều chính sách quốc gia coi PN là một trong những nhóm dễ bị tác động và phần lớn vẫn coi PN là người thụ hưởng nên các chính sách hiếm khi tập trung vào PN như những nhân tố tiềm năng của sự thay đổi để bảo tồn tài nguyên nước. Hoặc trong ngành năng lượng, hầu hết các công việc trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng và kỹ thuật được coi là chỉ phù hợp với nam giới theo truyền thống. Do đó, sự đóng góp của PN chiếm tỷ lệ thấp hơn đáng kể.
Được khởi xướng trong khuôn khổ dự án EmPower do UN Women và UNEP cùng thực hiện, với sự hỗ trợ của chính phủ Thụy Điển, báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị. Đó là nâng cao nhận thức và năng lực cho các nhà hoạch định chính sách. Bên cạnh đó, xây dựng hướng dẫn kỹ thuật lồng ghép giới vào chính sách BĐKH; Thực hiện nghiên cứu tác động giới của BĐKH theo ngành và khu vực; Xây dựng khung giám sát và đánh giá hoạt động lồng ghép giới trong chính sách khí hậu, tạo lập số liệu thống kê về giới và dữ liệu phân tách theo giới tính.
Các khuyến nghị cụ thể được đề xuất theo từng nhóm ngành, nghề để có thể cung cấp các chính sách nhằm tăng cường lồng ghép giới trong việc thực hiện NDC và cập nhật Chiến lược Quốc gia về BĐKH ở Việt Nam.