Giao đất, giao rừng còn trở ngại

ThienNhien.Net – Sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách giao đất, giao rừng ở Quảng Trị đã góp phần tích cực giải quyết nhu cầu đất SX của người dân…

Sau hơn 10 năm thực hiện chính sách giao đất, giao rừng ở Quảng Trị đã góp phần tích cực giải quyết nhu cầu đất SX của người dân, hạn chế nạn phá rừng và nâng độ che phủ rừng. Tuy nhiên, trên thực tế đã bộc lộ nhiều điều nan giải…

Tăng trưởng khá tốt

Theo Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị, từ năm 2005 – 2015, tỉnh đã tổ chức giao cho cộng đồng và hộ gia đình được hơn 11.160 ha rừng tự nhiên. Trong đó giao cho 55 cộng đồng được hơn 6.432ha, giao cho 820 hộ gia đình nhận hơn 4.727ha. Đối tượng rừng được giao chủ yếu là rừng SX với hơn 6.365ha, có tổng trữ lượng hơn 474.343 m3, trữ lượng bình quân 74,520 m3/ha và rừng phòng hộ ít xung yếu 4.794ha, có tổng trữ lượng hơn 451.459m3, trữ lượng bình quân 94,156 m3/ha.

Qua kết quả giao rừng tự nhiên cho thấy đối tượng được giao rừng phần lớn là cộng đồng dân cư thôn và hộ gia đình là đồng bào dân tộc Pa Kô, Vân Kiều. Rừng được giao chủ yếu là rừng phòng hộ ít xung yếu và rừng SX. Đây là rừng nghèo có trữ lượng từ 10 – 100 m3/ha. Các lâm sản ngoài gỗ trữ lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống từ việc tận thu lâm sản ngoài gỗ cho người nhận rừng.

Tổng kinh phí thực hiện để giao hơn 11.160ha rừng tự nhiên khoảng 6,42 tỷ đồng. Trong đó kinh phí từ ngân sách 2,94 tỷ đồng và kinh phí từ các chương trình dự án 3,48 tỷ đồng.

Thực tế cho thấy cộng đồng sau khi được giao rừng tự nhiên đã tiến hành thành lập Ban Quản lý rừng cộng đồng thôn thông qua việc bầu chọn từ cuộc họp thôn. Mỗi BQL thường có từ 5 – 7 thành viên gồm trưởng thôn, già làng, công an, mặt trận, phụ nữ, nông dân, thanh niên. Ngoài ra còn thành lập tổ, nhóm bảo vệ rừng chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng, thành viên của tổ bảo vệ rừng là những người nông dân nòng cốt, có uy tín và trách nhiệm.

Việc thực hiện Quy ước Bảo vệ và phát triển rừng là một trong những nội dung quan trọng của quá trình triển khai quản lý rừng cộng đồng. Qua kết quả đánh giá, trong 55 cộng đồng thôn được giao rừng thì hiện có 39 cộng đồng triển khai xây dựng qui ước đã được UBND huyện phê duyệt.

120716_giaodat
Theo Kiểm lâm Quảng Trị, nên chuyển những diện tích đất rừng ở xa sang trồng cây bời lời

Qua kết quả điều tra tại các cộng đồng và hộ gia đình được đánh giá nói trên, cho thấy lượng tăng trưởng của rừng sau 5 năm bảo vệ đạt từ 0,64 – 2,21% năm. Như vậy, so với lượng tăng trưởng bình quân chung của vùng Bắc Trung bộ là từ 1,5 – 2,0% năm thì ở đây có sự chênh lệch nhưng không đáng kể.

Không dễ sống

Hiện tại tỉnh Quảng Trị có hơn 142.000ha rừng tự nhiên, chủ yếu tập trung ở hai huyện miền núi Hướng Hóa và Đakrông. Điều nghịch lý là, trong khi ở đồng bằng, nhiều người giàu lên nhờ trồng rừng thì ở miền núi đa phần người dân rất khó sống được từ trồng rừng. Việc sử dụng đất rừng và công tác bảo vệ rừng tại 2 huyện miền núi Đakrông và Hướng Hóa không mang lại hiệu quả như mong muốn.

Theo tính toán của ngành chức năng, bình quân mỗi năm tỉnh Quảng Trị khai thác từ 6.000 – 10.000ha rừng trồng, chủ yếu là keo. Hiện nay, giá 1 khối gỗ keo hơn 1 triệu đồng, mỗi ha rừng sau khi trừ các khoản chi phí cũng thu được 50 triệu đồng từ tiền bán gỗ.

Tính ra, mỗi năm tỉnh Quảng Trị thu khoảng 400 – 500 tỷ đồng từ rừng trồng, giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn lao động, tạo ra chuỗi giá trị kinh tế lớn. Nhiều gia đình đã giàu lên nhờ trồng rừng. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng với người trồng rừng ở vùng đồng bằng hoặc nơi có đường vận chuyển thuận tiện.

Còn tại miền núi, địa hình cách trở thì tiền bán gỗ không đủ chi phí cho đầu tư, chăm sóc, khai thác. Ông Hồ Văn Nhiên, Chủ tịch UBND xã Tà Long, huyện miền núi Đakrông phàn nàn, người dân thấy trồng rừng không hiệu quả nên việc giao đất, giao rừng khó thực hiện.

Mới đây, cán bộ tỉnh về khảo sát, bàn kế hoạch giao thêm 100ha đất rừng do Bộ đội Biên phòng quản lý cho người dân làm ăn. Nhưng khi chính quyền tổ chức họp dân, phổ biến chủ trương thì bà con e ngại không dám nhận. Ông Nhiên băn khoăn chủ trương giao đất của nhà nước hợp lý nhưng do điều kiện tự nhiên ở địa phương quá hiểm trở, trồng rừng ra không đủ chi phí lại.

Thời gian qua, ở huyện Đakrông, nhiều người chặt phá hoặc bán rừng non lấy đất trồng cây sắn, thiệt đơn thiệt kép. Vậy là mục tiêu giao đất trồng rừng không đạt như mong muốn. Bà Ly Kiều Vân, Bí thư Huyện ủy Đakrông trăn trở, chủ trương giao đất, giao rừng cho đồng bào SX, quản lý bảo vệ rất đúng đắn, hợp lòng dân. Hiện nay, cây keo bán được giá, đầu ra ổn định vì có nhà máy gỗ MDF Quảng Trị thu mua. Tuy nhiên, rừng giao cho dân quán lý nằm tận rừng sâu, xa đường, địa hình cách trở nên hiệu quả sử dụng đất rừng không cao. Còn với những người dân nhận quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên cũng không mấy vui vẻ vì tiền công chăm sóc quá thấp.

Theo bà Ly Kiều Vân, nếu không có chính sách hỗ trợ miền núi thì người dân rất khó sống được trên đất rừng của mình. Người dân ở gần rừng mà không sống được từ rừng thì làm sao bà con có thể yên tâm được. Bà Ly Kiều Vân đề nghị Chính phủ, Nhà nước có chính sách kèm theo đối với đồng bào miền núi.

Theo số liệu mới nhất, diện tích rừng tự nhiên do UBND các xã quản lý năm 2005 là 48.810ha. Bằng nguồn vốn từ ngân sách và các chương trình dự án đã thực hiện giao trong 10 năm qua hơn 11.160ha. Hiện nay còn gần 38.000ha rừng do UBND các xã quản lý chưa được giao, thường có nguy cơ xâm hại cao. Ngành nông nghiệp Quảng Trị đang tiến hành rà soát lại quỹ đất rừng này để giao cho dân, qua đó tạo công ăn việc làm, bảo vệ rừng tốt hơn. Tuy nhiên, để dân sống được với rừng không dễ chút nào.

Ông Lê Văn Quý, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị cho biết, để tháo bớt khó khăn Chi cục đã động viên người dân miền núi chuyển diện tích đất rừng ở xa sang trồng cây bời lời. Cây bời lời chỉ khai thác vỏ, phơi khô dễ vận chuyển, giá vỏ từ 20.000 – 22.000 đồng/kg thì bà con có thể sống được từ rừng.

Ông Lê Văn Quý kiến nghị Chính phủ sớm sửa đổi chính sách, cần có hỗ trợ cho đồng bào miền núi đang còn giai đoạn bảo vệ giao rừng tự nhiên để người dân có cái ăn trong thời gian chăm sóc, bảo vệ rừng. Nếu không thì công tác giao đất giao rừng khó đạt hiệu quả.