Thích ứng để đối phó với biến đổi khí hậu

Trong nhiều nghiên cứu đánh giá về tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam, có những dự báo cho khung thời gian 20 năm, 50 năm và xa hơn nữa là cả 100 năm, nhưng dù dự báo nào, sử dụng mô hình nào, dựa trên yếu tố đánh giá nào cũng đều chỉ rõ Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của BĐKH. Ông Nguyễn Văn Tuệ – Cục KTTV và BĐKH (Bộ Tài nguyên và Môi trường) chia sẻ quan điểm: Để đối phó với BĐKH chỉ có cách nâng cao năng lực thích ứng.

Hồ Ea H’Rar 1 (xã Ea Tul, huyện Cư M’Gar, Đắk Lắk) cạn trơ đáy. (Ảnh: Đại Đoàn Kết)
Hồ Ea H’Rar 1 (xã Ea Tul, huyện Cư M’Gar, Đắk Lắk) cạn trơ đáy. (Ảnh: Đại Đoàn Kết)

Thực tế BĐKH thậm chí diễn ra còn nhanh hơn rất nhiều so với các dự báo nghiên cứu. Ở Việt Nam, trong vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 0,5 – 0,7o C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm. Hiện tượng El Nino, La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ. Biến đổi khí hậu thực sự đã làm gia tăng thiên tai, đặc biệt là bão, lũ và hạn hán diễn ra ngày càng khốc liệt. Trong vòng 10 năm (2001-2010), thiệt hại về tài sản do các loại thiên tai gây ra chiếm khoảng 1,5% GDP/năm. Tác động của BĐKH đến nước ta là rất nghiêm trọng, đang là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững đất nước.

Trước các tác động hiện hữu của BĐKH, để chủ động phòng tránh, giảm nhẹ rủi ro, thiệt hại từ tác động của BĐKH đồng thời tận dụng các cơ hội từ BĐKH để phát triển kinh tế-xã hội, việc nâng cao năng lực thích ứng được xác định là một trong những trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Nội dung của Chiến lược Quốc gia về BĐKH cũng đã nhấn mạnh: “Tăng cường năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của con người và các hệ thống tự nhiên, phát triển nền kinh tế các-bon thấp nhằm bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm an ninh và phát triển bền vững quốc gia”. Nâng cao năng lực thích ứng sẽ góp phần giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và tăng cường khả năng chống chịu trước tác động của BĐKH.

Vậy nâng cao năng lực thích ứng được hiểu là như thế nào? Và làm gì để nâng cao năng lực thích ứng? Theo chúng tôi, hiện việc triển khai các Chương trình quan trọng của Quốc gia như Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH (NTP-RCC), Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC),… cũng như các chương trình, đề án của các Bộ, ngành, địa phương về ứng phó với BĐKH đã đạt được một số kết quả quan trọng, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc quản lý rủi ro thiên tai được tăng cường thông qua việc xây dựng, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm thiên tai; công tác thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh thông qua đầu tư nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, xây dựng kế hoạch quản lý tài nguyên nước ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng; nguồn tri thức bản địa, giải pháp thích ứng dựa vào hệ sinh thái, thích ứng dựa vào cộng đồng… được nghiên cứu, tăng cường, triển khai ở nhiều nơi, góp phần tăng cường khả năng chống chịu, phục hồi trước tác động của biến đổi khí hậu và đảm bảo sinh kế cho người dân…

Vấn đề BĐKH, mối liên hệ giữa BĐKH với phát triển kinh tế xã hội cũng đã được nghiên cứu sâu rộng; kịch bản BĐKH, nước biển dâng được liên tục cập nhật với mức độ chính xác ngày càng cao; báo cáo đặc biệt về quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thích ứng với BĐKH (SREX) với các khuyến nghị quan trọng về mặt chính sách được công bố, tạo cơ sở định hướng để xây dựng và triển khai các kế hoạch ứng phó hiệu quả, quản lý rủi ro thiên tai và thích ứng với BĐKH. Hiện đã có nhiều mô hình thích ứng với BĐKH được nghiên cứu, triển khai thí điểm tại một số địa phương như mô hình nhà đa năng tránh bão, lũ; kè, kênh thủy lợi kết hợp đường giao thông nông thôn; mô hình xử lý nước mặn thành nước ngọt; trồng rừng ngập mặn ven biển, trồng rừng phòng hộ đầu nguồn kết hợp các giải pháp sinh kế cho người dân…

Tuy nhiên, có thể thấy rằng năng lực thích ứng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế; nguồn lực cho nâng cao thích ứng với biến đổi khí hậu còn chưa đáp ứng được nhu cầu; các giải pháp thích ứng vẫn chủ yếu tập trung vào ứng phó với các tác động đã xảy ra, nhiều giải pháp thích ứng chưa thật phù hợp, thường chú trọng giải pháp công trình, đòi hỏi chi phí cao, chưa thực sự đạt hiệu quả chi phí lợi ích xét về mặt kinh tế – môi trường…

Trong thời gian tới, nâng cao năng lực thích ứng vẫn là trọng tâm trong chính sách ứng phó với BĐKH tại Việt Nam. Để việc nâng cao năng lực thích ứng, cần tiếp tục có những nghiên cứu chuyên sâu, đánh giá cụ thể, từ đó đề ra các giải pháp phù hợp. Trong giai đoạn từ nay đến 2020, việc nâng cao năng lực thích ứng tập trung hướng tới các hoạt động thích ứng đảm bảo tính đa mục tiêu, lợi ích kép trong việc nâng cao khả năng thích ứng của cộng đồng, vừa đảm bảo sinh kế của người dân, tăng cường khả năng giảm phát thải khí nhà kính, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần cùng cộng đồng thế giới trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Định hướng hoạt động quan trắc môi trường trong giai đoạn mới

Trong 2 ngày 11 và 12-6, tại Cần Thơ, Bộ Tài nguyên và môi trường, Tổng cục Môi trường tổ chức hội thảo quan trắc môi trường lần thứ 6 năm 2015 với chủ đề “Định hướng hoạt động quan trắc môi trường trong giai đoạn mới”. 63 Sở Tài nguyên và môi trường của các tỉnh, thành trong cả nước tham dự. Phát biểu tại hội thảo, GS.TS Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ TN-MT nhận định: Hoạt động quan trắc môi trường tại Việt Nam được thiết lập và duy trì từ năm 1994 đến nay trên phạm vi cả nước. Năm 2015, với việc Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực thi hành được coi là năm bản lề mở ra giai đoạn mới cho hoạt động quan trắc môi trường. Nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác liên quan đến hoạt động của các đơn vị quan trắc môi trường như về cơ chế tự chủ, tổ chức bộ máy, thực thi luật bảo vệ môi trường được ban hành sẽ tạo ra nhiều thay đổi trong quản lý về môi trường… Các tỉnh, thành trong cả nước tham luận về kinh nghiệm quan trắc tài nguyên môi trường; mô hình tổ chức bộ máy quan trắc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động quan trắc môi trường.

Lê Quốc Khánh