Vựa lúa ĐBSCL đang đánh đổi những gì?

ThienNhien.Net – Nhờ mạng lưới đê điều, kênh mương rộng khắp, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất gạo hàng đầu thế giới. Nhưng cũng vì quy hoạch các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển thành “vựa lúa” mà vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam đang đánh mất đi nhiều thứ… Đó là nhận định của ông Mike Ives, phóng viên hãng tin AP, hiện đang công tác tại Hà Nội trong một bài báo đăng trên tờ Yale Environment 360. Xin được chia sẻ bài viết được lược dịch dưới đây cùng độc giả như một “góc nhìn từ bên ngoài” đối với vấn đề quy hoạch sản xuất lúa gạo vùng ĐBSCL của chúng ta. 

ĐBSCL là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông, có diện tích gần bằng Thụy Sĩ với hệ thống thủy triều phức tạp. Hàng năm, cứ vào mùa thu, dòng nước từ sông Mê Kông lại tràn bờ, bồi đắp phù sa cho vùng đồng bằng màu mỡ. Còn vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4), nước mặn lại chảy ngược dòng khoảng 30 km về phía thượng nguồn.

Cuối thập niên 1960, Mỹ và Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) đã giúp các tỉnh ĐBSCL gia tăng sản lượng gạo bằng cách hỗ trợ gieo trồng các giống lúa lai và xây dựng mạng lưới đê điều, kênh mương thủy lợi.

Các chiến dịch kiểm soát thủy văn của ĐBSCL được đẩy mạnh vào những năm 1990, khi Chính phủ cho xây dựng một mạng lưới các tuyến đê cao hơn xung quanh các vùng trồng trọt và xây cống ở vùng cửa sông, kênh rạch. Các con đê này không chỉ góp phần giảm thiểu tác động của lũ lụt và giảm xâm nhập mặn mà còn giúp nông dân ĐBSCL canh tác quanh năm.

Gia đình anh Phan Đình Đức ở An Giang sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa. Ngay sát nhà anh là cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay với những thửa ruộng ngập nước được bao quanh bởi một mạng lưới kênh mương cùng những con đê cao cỡ chừng 3m. Mạng lưới ấy tạo điều kiện cho nông dân trồng lúa quanh năm ở nơi mà cách đây nửa thế kỷ đất còn bị bỏ nhàn rỗi tới nửa năm và chỉ trồng được mỗi năm một vụ giữa những đợt lũ.

Trên địa bàn tỉnh An Giang, một địa phương có thế mạnh về trồng lúa của Việt Nam, sản lượng lúa gạo đã tăng gấp 4 lần chỉ trong vòng 4 thập kỷ qua. Ngoài việc đưa vào trồng các giống lúa năng suất cao thì sự ra đời của công trình “đê tháng tám” cũng là nguyên nhân quan trọng giúp An Giang gia tăng sản lượng lúa. Nhờ công trình này, người nông dân có thể kéo dài vụ lúa từ tháng 6 sang tháng 8 và trồng thêm được một vụ.

Các con đê lớn hơn được xây dựng vào thập niên 1990 và những năm đầu thế kỷ XXI tiếp tục tạo điều kiện cho những nông dân như anh Đức trồng thêm vụ lúa thứ ba trên cùng một diện tích…

Thành tựu vượt bậc chỉ trong một thế hệ đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo, chưa tự chủ được về lương thực trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đồng thời ghi tên mình vào danh sách các quốc gia sản xuất gạo hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, việc tiếp tục xây dựng các con đê và hệ thống thủy lợi ở vùng ĐBSCL và dọc bờ biển Đông đang phá vỡ các hệ thống sinh thái phức tạp tại đây.

Một con đê biển ở tỉnh Trà Vinh (Ảnh: Andrew Wyatt)
Một con đê biển ở tỉnh Trà Vinh (Ảnh: Andrew Wyatt)

Đơn cử, đê cao ở đầu nguồn một mặt có thể chắn xung lũ tự nhiên nhưng mặt khác lại lấy đi các chất dinh dưỡng quan trọng cho vùng lúa và ngư trường phía cuối hạ nguồn.

Xây đê cao ở khu vực đất đai màu mỡ cũng chặn dòng chất dinh dưỡng từ đất. Ruộng lúa càng nằm sâu trong đê thì nước càng chứa ít chất hữu cơ hơn. Bên cạnh việc giảm chất lượng đất, thiếu các chất dinh dưỡng còn khiến đất bị sụt lún do không được bồi đắp thường xuyên.

Ngoài ra, hóa chất nông nghiệp còn gây ô nhiễm kênh mương thủy lợi, khiến nước và đất bị nhiễm phèn. Các nhà khoa học cho rằng chính điều này đã góp phần làm suy giảm quần thể cá và đa dạng sinh học vùng ĐBSCL.

Dọc bờ biển phía nam Việt Nam, nhiều cống và đê được xây dựng để phục vụ trồng lúa nước và ngăn mặn vào mùa khô mà không lường trước được rằng chúng sẽ hạn chế việc luân chuyển các chất hữu cơ giữa môi trường nước ngọt và nước mặn, khiến dừa nước – loài cây đặc hữu có nhiều giá trị kinh tế của vùng – chết hàng loạt.

Chưa kể, hệ thống cống và đê còn gây gián đoạn dòng chảy dinh dưỡng cân bằng giữa nước ngọt và nước mặn, đe dọa những cánh rừng ngập mặn ven biển. Giả như những cánh rừng này mất đi, Việt Nam sẽ càng dễ bị tổn thương hơn trước những cơn bão lớn và hiện tượng nước biển dâng do tác động của biến đổi khí hậu.

Xây đê dọc bờ biển cũng giúp nông dân ven biển chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi tôm trong môi trường nước lợ. Tuy nhiên hoạt động nuôi tôm thường diễn ra trong đê khiến nước thải ứ đọng lại chứ không chảy ra biển. Điều này, theo một nghiên cứu của ông Lê Anh Tuấn, Đại học Cần Thơ và một nhóm nhà khoa học quốc tế, sẽ làm nước lợ ngày càng xâm nhập sâu vào nội địa, trong khi nước mặn tiếp tục ngược dòng qua kênh mương chảy về phía thượng nguồn, gây ô nhiễm đồng lúa và giếng nước, buộc người dân phải khoan giếng sâu hơn…

Vô số vấn đề môi trường đang thôi thúc Chính phủ Việt Nam hoạch định và triển khai các giải pháp mang lại lợi ích dài lâu cho cả kinh tế và môi trường, chẳng hạn như bỏ lúa vụ ba, kiểm soát lũ ở vùng đồng bằng phía thượng nguồn để tăng bồi lắng phù sa, di chuyển đê biển ven bờ vào sâu trong nội địa để tạo điều kiện cho rừng ngập mặn phát triển hay thiết kế, xây dựng những tuyến đường bờ biển linh hoạt có thể hợp nhất các hệ thống nước mặn và nước ngọt…

Điều khó khăn nhất với Việt Nam bây giờ là phải lựa chọn: tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lúa gạo như một mặt hàng chủ lực bất chấp mọi hệ lụy về môi trường và xã hội hay bỏ vụ lúa thứ ba, đồng thời hạn chế xây dựng các cơ sở hạ tầng kiểm soát nguồn nước.

Theo nhà kinh tế học Martijn van de Groep, người đang quản lý dự án hợp tác giữa Hà Lan và Việt Nam – “Kế hoạch Châu thổ sông Cửu Long” – thì “vấn đề cơ bản là Việt Nam có muốn tiếp tục nằm trong tốp các nước xuất khẩu gạo lớn hay không”.

Điều đáng mỉa mai, theo các chuyên gia, là nông dân vùng ĐBSCL không được hưởng lợi từ lúa vụ ba. Bởi lẽ, sản phẩm kém chất lượng bán với giá rẻ không thu lại được lợi ích là mà nông dân lại mất chi phí đầu tư cho phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Chưa kể, năng suất lúa gạo giảm khi chuyển từ canh tác lúa hai vụ sang ba vụ. Chính vì vậy, theo ông Jake Brunner thuộc Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), chính sách phát triển lúa gạo hiện nay của Việt Nam chưa mang lại lợi ích cho người nông dân.

Tốc độ phát triển của ĐBSCL thực tế chưa thể so sánh với Đồng bằng sông Mississippi hay những đồng bằng khác trên thế giới. Tuy nhiên, giới khoa học vẫn lo ngại rằng một ngày không xa, vùng đồng bằng này sẽ trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh của các đồng bằng ở Hoa Kỳ và Hà Lan, nơi từng nhiều lần bị sụt lún đất và từng hứng chịu hàng loạt vấn đề nóng bỏng về môi trường do các công trình xây dựng hạ tầng lớn gây ra.

Và mặc dù các tác động môi trường của việc trồng lúa ba vụ ngày càng rõ rệt tại thượng nguồn ĐBSCL, vẫn chưa rõ liệu lời kêu gọi từ bỏ chính sách gạo là ưu tiên số 1 của các nhà khoa học có được Việt Nam lưu tâm hay không, nhất là trong bối cảnh Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang có xu hướng theo đuổi các chính sách chú trọng tăng trưởng kinh tế hơn là các mối quan tâm sinh thái.