Những “gã khổng lồ” trong thế giới chuồn chuồn

ThienNhien.Net – Hóa thạch lớn nhất của nhóm chuồn chuồn cổ đại (Protodonata) được tìm thấy là của loài Meganeuropsis permiana từ kỷ Pecmi, cách đây 250 triệu năm, có chiều dài sải cánh cánh lên tới 710mm. Một hóa thạch khác cũng nổi tiếng không kém là của loài Meganeura monyi từ kỷ Carbon được tìm thấy ở Pháp với chiều dài sải cánh khoảng 685mm. Tuy nhiên, cho tới hiện nay thì tất cả các nhóm chuồn chuồn cổ đại trên đều đã bị tuyệt chủng. Vậy hiện nay, trong thế giới của các loài chuồn chuồn, loài nào lớn nhất trên Trái đất?

Có rất nhiều thông tin thiếu chính xác và mâu thuẫn được công bố trên các phương tiện truyền thông liên quan đến câu hỏi này, hầu hết đều sử dụng tổng chiều dài sải cánh (wingspan) và tổng chiều dài cơ thể (body length) để tính kích thước của chuồn chuồn.

Nếu tổng chiều dài sải cánh được sử dụng thì loài chuồn chuồn lớn nhất trên thế giới có lẽ là loài Chuồn chuồn kim Megaloprepus caerulatus ở Nam Mỹ, với sải cánh lên tới 191mm và cơ thể dài tới 120mm. Rõ ràng với chiều dài sải cánh như thế thì cho đến hiện nay khó có loài chuồn chuồn nào có thể địch nổi tầm vóc của loài chuồn chuồn có đôi cánh với màu sắc kỳ lạ này.

Chuồn chuồn kim Megaloprepus caerulatus ở Nam Mỹ. (Ảnh: Keith Wilson)

Tuy nhiên,một số tài liệu đã thống kê rằng loài Chuồn chuồn ngô Anax strenuus, một loài đặc hữu của Hawaii lại là loài chuồn chuồn lớn nhất trên thế giới với sải cánh tối đa được ghi nhận là 190mm. Trong khi đó, Keith Wilson, một nhà nghiên cứu chuồn chuồn nổi tiếng trên thế giới lại cho rằng, tất cả những mẫu vật của loài này được ông thu thập đều có sải cánh dài không quá 150mm – rất xa so với kích thước nêu trên. Dennis Paulson (2006) cũng ghi nhận chiều dải sải cánh của mẫu con cái của loài này trong bộ sưu tập của ông cũng chỉ dài 144mm.

Con cái của loài Tetracanthagyna plagiata từ quần đảo Malaysia và Borneo (Ảnh: Keith Wilson).

Và nếu vẫn sử dụng chiều dài sải cánh để so sánh, thì loài chuồn chuồn lớn thứ hai trên thế giới phải là loài chuồn chuồn ngô Tetracanthagyna plagiata phân bố ở quần đảo Malaysia và Borneo. Con cái của loài này có chiều dài sải cánh lên tới 163mm và tổng chiều dài cơ thể khoảng 100mm.

Loài lớn thứ 3 là loài chuồn chuồn ngô Petalura ingentissima, chỉ mới được ghi nhận ở phía Bắc Queensland, Australia, có sải cánh dài tới 162mm cùng một cơ thể kềnh càng với chiều dài tối đa khoảng 125mm.

Petalura ingentissima (con đực) từ Bắc Queensland, Australia (Ảnh: Keith Wilson).

Trái lại, nếu tính theo tổng chiều dài cơ thể, thì các loài chuồn chuồn kim thuộc giống MecistogasterPseudostigma ở Nam Mỹ mới là những loài dài nhất thế giới. Theo ghi nhận của Dennis Paulson (2006) thì loài Mecistogaster linearis có chiều dài cơ thể lên tới 135mm, và ông cho rằng đây chắc chắn là loài chuồn chuồn kim dài nhất và cũng là loài chuồn chuồn dài nhất trên thế giới.

Bên cạnh đó, Hedström & Sahlén (2001) cũng ghi nhận một con đực của loài Pseudostigma aberrans có chiều dài cơ thể lên tới 144mm và một mẫu vật của loài Pseudostigma accedens có tổng chiều dài 135mm. Còn Jill Silsby (2001) thì công bố loài Mecistogaster lucretia dài tới 150mm với sải cánh khoảng 125mm. Gần đây nhất, KD Dijkstra (2007) đã thu thập được 2 mẫu con đực của loài Mecistogaster lucretia với tổng chiều dài cơ thể là 146 & 149mm. Đây xứng đáng là “nhà vô địch” chuồn chuồn về chiều dài cơ thể.

Mecistogaster lucretia. (Ảnh: KD Dijkstra)

Loài chuồn chuồn ngô dài nhất từng được ghi nhận là con cái của loài Petalura ingentissima với chiều dài cơ thể khoảng 125mm, sải cánh dài khoảng 155mm.

Ngoài ra, có một cách khác để so sánh kích thước giữa các loài chuồn chuồn là tính toàn bộ chiều dài của cánh hoặc chiều rộng tối đa cánh. Nếu theo cách này, thì loài chuồn chuồn ngô khổng lồ phải là Chlorogomphus papilio, với chiều rộng tối đa cánh lên tới 34mm, tổng chiều dài cánh khoảng 101mm và sải cánh rộng 130mm. Loài này phân bố ở các vùng thuộc Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam (Cao Bằng).