Năng lượng địa nhiệt Việt Nam có tiềm năng ứng dụng cao

Theo các chuyên gia trong và ngoài nước, với 264 nguồn nước nóng, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về nguồn năng lượng địa nhiệt (nước nóng) phục vụ hiệu quả cho chế biến nông sản và du lịch.

Ngày 12/03 tại Hà Nội, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam cùng Viện Khoa học Địa chất và Tài nguyên Liên bang Đức (BGR) đã tổ chức hội thảo “Cơ cấu kinh tế – xã hội đối với việc sử dụng nguồn năng lượng địa nhiệt tại Việt Nam”. Hội thảo được tổ chức với mục đích nhằm giới thiệu tiềm năng địa nhiệt nước ta và đề xuất giải pháp sử dụng hiệu quả và hợp lý nguồn năng lượng này.

Theo thống kê, hiện ở nước ta, điều tra trên toàn quốc phát hiện 264 nguồn nước nóng, nhiều nhất là nguồn nước ấm dưới 40 độ C, nguồn nước cực nóng trên 100 độ C mới phát hiện được 4 nguồn.

Ông Thomas Mathews, chuyên gia Công ty tư vấn Fugro GmbH (Đức), cho biết với các nguồn nước trên 200 độ C có thể dùng làm nhiên liệu trạm phát điện, nhiệt độ từ 80 độ đến dưới 200 độ C có thể dùng trực tiếp để sấy nông thủy sản, sưởi ấm cho các căn hộ, nhà máy và nhiệt độ dưới 80 độ C dùng để dưỡng bệnh, phục vụ du lịch…

Đồng quan điểm, ông Võ Công Nghiệp, chuyên gia Hội Địa chất Thủy văn Việt Nam, nhấn mạnh các nguồn nhiệt nước ta có nhiệt độ không cao, nên rất có triển vọng trong sử dụng trực tiếp để sấy sản phẩm, phục vụ dưỡng bệnh, du lịch…

Ưu điểm của nguồn địa nhiệt nước ta là phân bố ở đều khắp lãnh thổ, cho phép sử dụng rộng rãi ở nhiều địa phương. “Với nhiệt độ thấp, sử dụng để phát điện sẽ tốn kém và cần điều tra nghiên cứu đầy đủ hơn. Có thể xây dựng những trạm phát điện công suất nhỏ phục vụ những làng bản vùng sâu, nơi mạng lưới điện quốc gia chưa vươn tới”, ông Nghiệp nói.

Bà Katrin Kessels, Cố vấn trưởng Viện Khoa học Địa chất và Tài nguyên Liên bang Đức (BGR) cho biết từ năm 2007, Viện đã điều tra, khảo sát tiềm năng điện nhiệt ở 6 điểm nước nóng ở Tu Bông (Khánh Hòa), Phú Sen (Phú Yên), Hội Vân (Bình Định), Nghĩa Thuận (Quảng Ngãi), Thạch Trụ (Quảng Ngãi) và Kon Du (Kon Tum) và nghiên cứu phương án sử dụng hiệu quả tùy mức độ chất lượng từng nguồn nước.