Thuế carbon: Rào cản không thể đảo ngược đối với các doanh nghiệp xuất khẩu

Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang đứng trước một rào cản không thể đảo ngược tại châu Âu, Hoa Kỳ và nhiều nền kinh tế khác. Đó là các hàng rào thuế quan để kiểm soát và điều chỉnh biên giới phát thải carbon đối với hàng nhập khẩu.

Từ năm 2021, Việt Nam đã bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải theo cam kết tại Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Chính phủ cũng đã đưa ra cam kết đưa phát thải ròng về 0.

Tại hội thảo “Hiện thực hóa cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng 0: Cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp”, diễn ra ngày 11/10, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương nhìn nhận: Bên cạnh những thách thức, việc thực hiện cam kết của Chính phủ đưa phát thải ròng về 0 cũng tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp.

Ảnh minh họa.

Đó là các cơ hội cho nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, cơ hội tiếp cận với nguồn tài chính xanh để đầu tư vào các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Giảm phát thải hoặc trả tiền

Theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2021 sang Hoa Kỳ là 96,29 tỷ USD; sang EU là 45,8 tỷ USD. Đây là hai thị trường trọng điểm với giá trị lớn mà Việt Nam đang nỗ lực mở rộng các thị phần. Bởi vậy, các chuyên gia nhận định, CBAM sẽ trở thành rào cản khó khăn với các doanh nghiệp trong thời gian tới.

EU sẽ thí điểm CBAM trong giai đoạn 2023 – 2025 với 5 loại mặt hàng: sắt thép, xi măng, phân bón, nhôm, năng lượng điện. Thời gian thí điểm, các nhà nhập khẩu chưa cần trả phí mà phải báo cáo lượng khí thải có trong hàng hóa nhập khẩu của họ. Vào năm 2025, Ủy ban Châu Âu sẽ đánh giá CBAM đang hoạt động như thế nào và có thể mở rộng phạm vi điều chỉnh sang nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn – bao gồm cả chuỗi giá trị và có thể bao gồm “phát thải gián tiếp” (ví dụ như khí thải carbon từ việc sử dụng điện để sản xuất hàng hóa) – khi áp dụng chính thức vào năm 2026.

Về cơ chế cụ thể từ năm 2026, ông Rasmus Nedergaard – chuyên gia về năng lượng tái tạo của Tổ chức Act Rênwable cho biết, đơn vị nhập khẩu hàng vào EU sẽ đăng ký với cơ quan quản lý về tổng khối lượng hàng hóa, lượng phát thải khí nhà kính có liên quan và giao nộp số lượng tín chỉ carbon (mỗi tín chỉ tương đương quyền phát thải 1 tấn CO2) nếu vượt hạn ngạch. Nếu thiếu sẽ phải trả tiền mua thêm tín chỉ, với giá cả dựa vào giá hàng tuần trên thị trường tín chỉ carbon của EU.

Theo bà Trương An Hà – chuyên gia thuộc Sáng kiến về Chuyển dịch năng lượng Việt Nam, CBAM chắc chắn sẽ tác động đến hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU, trước tiên là thép và xi măng. Việt Nam đã xuất khẩu 1,6 triệu tấn thép xuất khẩu sang thị trường EU tính tới cuối năm 2021 và có xu hướng tăng. Cường độ phát thải của thép Việt Nam là 2,1 tấn CO2/tấn thép. Còn tại châu Âu, cường độ phát thải chưa tới 2 tấn CO2/tấn thép đối với thép luyện lò cao và chỉ khoảng 0,5 tấn CO2/tấn thép đối với thép từ lò hồ quang điện.

Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, CBAM nếu được thông qua thì thời gian áp dụng của Đạo luật cạnh tranh Sạch sẽ là vào năm 2024, không có thời gian thí điểm. Theo bà Đỗ Thị Thu Hương – đại diện Văn phòng Ban IV, Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ), việc tính thuế vượt hạn ngạch sẽ dựa vào số liệu phát thải toàn nền kinh tế có hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ nói chung hoặc số liệu phát thải một ngành cụ thể. Ngoại lệ là các hàng hóa sơ cấp được nhập khẩu vào Hoa Kỳ và được sản xuất tại một số quốc gia tương đối kém phát triển.

Nâng cao hiệu lực chính sách, chống “rò rỉ” carbon

Ông Rasmus Nedergaard nhận định, về bản chất, CBAM là cách để EU cân bằng giá carbon giữa sản phẩm nội địa và sản phẩm nhập khẩu. Châu Âu đang đẩy mạnh tiến trình đạt được mục tiêu tham vọng trở thành lục địa trung hòa khí hậu vào năm 2050 và sẽ thắt chặt các quy định sản xuất. Điều này dễ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp EU có thể chuyển những hoạt động sản xuất phát thải nhiều carbon ra nước ngoài để tranh thủ các tiêu chuẩn còn lỏng lẻo ở nước sở tại, hay còn gọi là “rò rỉ” carbon. Hàng hóa sau CBAM sẽ trở nên đắt đỏ hơn, trừ khi doanh nghiệp thực sự cắt giảm phát thải khí nhà kính trong tất cả quy trình sản xuất dù ở bất kỳ đâu.

Một điểm đáng lưu ý, đối với hàng hóa từ các quốc gia không có công cụ định giá carbon, đơn vị nhập khẩu phải trả đầy đủ thuế theo CBAM khi nhập khẩu hàng hóa. Đối với hàng hóa từ các quốc gia đã có công cụ định giá carbon, đơn vị nhập khẩu sẽ trả/nhận khoản chênh lệch giữa 2 giá carbon.

Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định số 06/2022/ND-CP về “Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn” đã đề ra những quy định về việc các doanh nghiệp phát thải lớn sẽ phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và tiến hành các biện pháp giảm phát thải. Đây được coi là những bước đặt nền móng xây dựng thị trường carbon trong nước, định giá carbon. Điều này góp phần thúc đẩy doanh nghiệp chú trọng đầu tư chuyển đổi công nghệ để giảm thải khí carbon trong quá trình sản xuất. Từ đó, hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam vào EU sẽ chịu mức thuế biên giới carbon thấp hơn hoặc không bị áp dụng thuế biên giới carbon khi các tiêu chuẩn về xả thải carbon trong quá trình sản xuất tuân theo tiêu chuẩn của EU.

Mặc dù vậy, sàn giao dịch của Việt Nam phải đến năm 2028 mới chính thức vận hành. Giá tín chỉ carbon của Việt Nam giao dịch trên thị trường quốc tế hiện vẫn còn khoảng cách khá xa với giá tín chỉ giao dịch tại EU hay Mỹ. Thực tế hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, cập nhật thông tin về các quy định, nguy cơ và giải pháp liên quan đến giảm phát thải khí nhà kính tác động trực tiếp và gián tiếp tới doanh nghiệp.

Vấn đề hiện nay, theo bà Đỗ Thị Thu Hương, doanh nghiệp muốn biết về giảm phát thải phần lớn vẫn phải tự mày mò, tìm hiểu, sau đó mới đến nguồn thông tin tiếp nhận từ phía cơ quan Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp muốn tìm hiểu về CBAM, nhưng không biết tìm từ nguồn nào và rất nhiều vấn đề liên quan đến kỹ thuật phức tạp, khái niệm mới.

Đây là vấn đề cần được cải thiện trong thời gian tới để nâng cao mức độ tham gia của khối doanh nghiệp vào mục tiêu chung phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.

Để thực hiện hóa được cơ hội, PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường cho rằng: Các doanh nghiệp phải nắm bắt được nguyên lý vận hành của thị trường carbon, các quy định của pháp luật liên quan đến thị trường carbon từ đó chủ động trong việc cân đối với năng lực và khả năng sẵn sàng của doanh nghiệp để tham gia thị trường này khi đi vào vận hành, nhất là đăng ký tham gia trên sàn giao dịch tín chỉ carbon.

Trong khi đó, bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế – Ngân hàng Nhà nước đề xuất, cần có hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Ngoài ra, cần xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh…