Trái Đất khác biệt thế nào khi tăng nhiệt vượt ngưỡng 1,5 và 2 độ C?

Tại hội nghị COP26 của Liên Hợp Quốc, các nhà lãnh đạo thế giới nhấn mạnh sự cần thiết phải hạn chế nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C. Mức tăng nhiệt vượt ngưỡng 1,5 độ C và hơn thế nữa sẽ làm trầm trọng thêm các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Thỏa thuận Paris 2015 cam kết các quốc gia hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu xuống dưới 2 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp và hướng tới mục tiêu 1,5 độ C.

Các nhà khoa học cho biết, việc vượt qua ngưỡng 1,5 độ C có nguy cơ gây ra các tác động biến đổi khí hậu nghiêm trọng hơn nhiều đối với con người, động vật hoang dã và hệ sinh thái. Do đó, để ngăn chặn tình trạng này đòi hỏi phải giảm gần một nửa lượng phát thải CO2 toàn cầu vào năm 2030 so với mức của năm 2010 và cắt giảm xuống mức ròng bằng 0 vào năm 2050. Đây là một nhiệm vụ đầy tham vọng mà các nhà khoa học, nhà tài chính, nhà đàm phán và các nhà hoạt động tại COP26 đang tranh luận về cách đạt được và chi trả.

Ngọn lửa bốc lên trong đám cháy rừng ở làng Galatsona, trên đảo Evia, Hy Lạp. (Ảnh: Nicolas Economou)

Vậy khác biệt giữa sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C và 2 độ C là gì?

Hiện thế giới đã nóng lên khoảng 1,1 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp. Mỗi thập kỉ trong 4 thập kỉ qua đều nóng hơn bất kỳ thập kỉ nào kể từ năm 1850.

Nhà khoa học khí hậu Daniela Jacob, Trung tâm Khí hậu Đức cho biết: “Chúng ta chưa bao giờ có hiện tượng Trái Đất nóng lên như vậy chỉ trong vài thập kỉ. Nửa độ có nghĩa là thời tiết khắc nghiệt hơn nhiều và nó có thể thường xuyên hơn, dữ dội hơn hoặc thời gian kéo dài hơn”.

Chỉ trong năm nay, những trận mưa xối xả đã tràn vào Trung Quốc và Tây Âu, khiến hàng trăm người thiệt mạng. Hàng trăm người khác thiệt mạng khi nhiệt độ ở Tây Bắc Thái Bình Dương đạt mức cao kỉ lục. Riêng Greenland ở Bắc Cực đã chứng kiến ​​các sự kiện tan chảy lớn, cháy rừng tàn phá Địa Trung Hải và Siberia và hạn hán kỉ lục đã ảnh hưởng đến các khu vực của Brazil.

Nhà khoa học khí hậu Rachel Warren, Đại học East Anglia cho biết: “Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng đến mọi khu vực có người sinh sống trên toàn cầu”.

Hành tinh nóng lên, mưa, hạn hán dữ dội

Sự nóng lên nhiều hơn đến 1,5 độ C và hơn thế nữa sẽ làm trầm trọng thêm các tác động như vậy.

Nhà khoa học khí hậu Sonia Seneviratne thuộc ETH Zurich cho biết: “Cứ mỗi sự gia tăng của nhiệt độ nóng lên toàn cầu, những thay đổi của hiện tượng thời tiết cực đoan trở nên lớn hơn”. Đặc biệt, sóng nhiệt sẽ trở nên thường xuyên và nghiêm trọng hơn.

Những ngôi nhà bị lũ lụt tàn phá tại Mayschoss, Đức. (Ảnh: Andreas Kranz)

Theo Hội đồng khoa học khí hậu của Liên Hợp Quốc (IPCC), nếu sự nắng nóng khắc nghiệt xảy ra mỗi thập kỉ một lần trong khí hậu không có tác động của con người, sẽ xảy ra 4,1 lần trong một thập kỉ ở nhiệt độ nóng lên 1,5 độ C và 5,6 lần ở nhiệt độ 2 độ C.

Nếu sự nóng lên theo hình xoắn ốc đến 4 độ C, thì sự nắng nóng khắc nghiệt như vậy có thể xảy ra 9,4 lần mỗi thập kỉ. Theo đó, bầu không khí nóng hơn cũng có thể giữ nhiều độ ẩm hơn, dẫn đến lượng mưa lớn hơn làm tăng nguy cơ lũ lụt. Nó cũng làm tăng bốc hơi, dẫn đến hạn hán khốc liệt hơn.

Băng, biển, rạn san hô

Sự khác biệt giữa 1,5 độ C và 2 độ C là rất quan trọng đối với các đại dương và vùng đóng băng của Trái Đất.

Nhà khoa học khí hậu Michael Mann tại Đại học bang Pennsylvania cho biết, ở nhiệt độ 1,5 độ C có thể ngăn phần lớn băng ở Greenland và phía Tây Nam Cực sụp đổ. Điều đó sẽ giúp hạn chế mực nước biển dâng lên 60 cm vào cuối thế kỷ này, dù đó vẫn là một sự thay đổi lớn có thể làm xói mòn các đường bờ biển và làm ngập một số quốc đảo nhỏ và các thành phố ven biển.

Tuy nhiên, nếu tăng quá 2 độ C, các tảng băng có thể sụp đổ, mực nước biển dâng lên đến 10 mét, mặc dù điều đó có thể xảy ra nhanh như thế nào là không chắc chắn.

Bên cạnh đó, nhiệt độ nóng lên 1,5 độ C sẽ phá hủy ít nhất 70% rạn san hô, nhưng lên đến 2 độ C hơn 99% rạn san hô sẽ bị mất. Điều đó sẽ phá hủy môi trường sống của cá và các cộng đồng sống dựa vào các rạn san hô để kiếm thức ăn và sinh kế.

Vùng đất khô cằn trên đập Jaguari, một phần của hệ thống hồ chứa Cantareira, trong trận hạn hán ở Joanopolis (Brazil). (Ảnh: Amanda Perobelli)

“Điểm giới hạn”

Khi thế giới nóng lên, nguy cơ hành tinh sẽ đạt đến “điểm giới hạn” tăng lên, nơi các hệ thống của Trái đất vượt qua ngưỡng gây ra các tác động không thể đảo ngược.

Trong đó, hạn hán, giảm lượng mưa và sự tàn phá liên tục rừng Amazon có thể khiến hệ thống rừng nhiệt đới sụp đổ, giải phóng CO2 vào khí quyển thay vì lưu trữ nó. Hay sự ấm lên của lớp băng vĩnh cửu ở Bắc Cực có thể khiến sinh khối đông lạnh lâu ngày bị phân hủy, giải phóng một lượng lớn khí thải carbon. “Đó là lý do tại sao việc tiếp tục phát thải từ nhiên liệu hóa thạch rất rủi ro, bởi vì chúng ta đang làm tăng khả năng vượt qua một trong những điểm giới hạn đó”, Giáo sư Lewis nói.

Nhiệt độ nóng hơn 2 độ C sẽ gây hậu quả gì?

Cho đến nay, cam kết về khí hậu mà các quốc gia đã đệ trình lên cơ quan đăng ký cam kết của Liên Hợp Quốc sẽ đưa thế giới vào tình trạng ấm lên 2,7 độ C. Ngày 5/11, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, những cam kết mới được công bố tại Hội nghị COP26, nếu được thực hiện có thể giữ nhiệt độ nóng lên dưới 1,8 độ C. Vẫn còn phải xem liệu những lời hứa đó có chuyển thành hành động trong thế giới thực hay không.

Nhiệt độ ấm lên 2,7 độ C sẽ mang lại “một mùa nóng không thể tồn tại” cho các vùng trong năm trên khắp các khu vực của vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Các nhà khoa học cho biết, đa dạng sinh học sẽ bị cạn kiệt nghiêm trọng, an ninh lương thực giảm và thời tiết khắc nghiệt sẽ vượt quá khả năng đối phó của hầu hết các cơ sở hạ tầng đô thị.

Giáo sư Mann nói: “Nếu tiếp tục ấm lên dưới 3 độ C, chúng ta có thể vẫn trong khả năng thích ứng của mình như một nền văn minh, nhưng ở mức ấm lên 2,7 độ C, chúng ta sẽ gặp khó khăn lớn”.