Ngành than “kêu” bị đánh thuế cao nhất thế giới

ThienNhien.Net – Tổng cục Hải quan và Tổng cục Năng lượng cho biết, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) vừa có văn bản gửi hai tổng cục này kiến nghị xem xét giảm thuế tài nguyên nói chung và thuế tài nguyên đối với sản phẩm than nói riêng bằng mức các nước trong khu vực. Cụ thể: Than hầm lò 5%, than lộ thiên 7%, không tính phí môi trường trên cả đất đá thải ra trong quá trình khai thác.

Trong văn bản kiến nghị, TKV trình bày: Trong các năm gần đây, ngành Than gặp nhiều khó khăn, bởi nhu cầu năng lượng cũng như giá than trên thị trường thế giới đều giảm, trong đó giá than giảm trên 30%. Thế nhưng, các loại thuế, phí lại tăng chiếm khoảng 15%, gồm: Thuế tài nguyên bình quân 10%; phí môi trường và thuế môi trường khoảng 2,5%; tiền cấp quyền khai thác 2%; các loại thuế, phí khác 0,5%. Ngoài mức thuế và phí nói trên, sản phẩm than trong nước phải chịu 10% thuế giá trị gia tăng.

Chưa dừng lại ở mức thuế và phí cao như đã nêu, theo Nghị quyết của Thường vụ Quốc hội, thuế tài nguyên sẽ tiếp tục tăng thêm từ ngày 1/7/2016. Theo đó, sản phẩm than khai thác lộ thiên sẽ tăng 12% và than khai thác hầm lò 10%. Theo tính toán, với mức thuế tài nguyên điều chỉnh tăng đồng nghĩa với việc TKV tăng chi phí phải nộp lên khoảng 1.200 tỉ đồng/năm.

TKV cho biết, đối với sản phẩm than xuất khẩu, tổng số thuế sẽ bằng 35% giá thành/tấn than. Theo đó, đơn giá tính thuế tài nguyên, phí môi trường và phí cấp quyền khai thác cũng sẽ được điều chỉnh theo hướng ngày càng tăng.

Một lãnh đạo của TKV cho biết, theo dự kiến, thời gian tới đây Chính phủ sẽ ban hành nghị định hướng dẫn cách tính phí môi trường mới. Theo cách tính này có cả tính phí lượng đất đá thải ra khiến TKV phải nộp thêm khoảng 70 tỉ đồng/năm.

Dự toán với mức tính thuế như trên, 6 tháng cuối năm 2016, TKV sẽ phải nộp thuế tài nguyên than tăng thêm 731 tỉ VNĐ và từ năm 2017 trở đi, con số sẽ tăng lên 15.000 tỉ đồng/năm.

Nhìn ra thế giới, thuế tài nguyên hiện nay của Australia đang áp mức thuế 5 – 7%, Trung Quốc từ 2 – 10% và họ đang tạm thời bỏ nhiều loại thuế và phí khác. Đem so sánh, nhận thấy mức thuế tài nguyên đối với ngành Than Việt Nam hiện nay đang ở mức rất cao. Một lãnh đạo của TKV cho rằng, đây là mức thuế “cao nhất thế giới”. Điều này sẽ làm cho lợi nhuận giảm và doanh nghiệp gặp khó không đủ vốn để đầu tư công nghệ hiện đại và mục tiêu cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống công nhân mỏ sẽ hạn chế.

  Áp dụng công nghệ hiện đại trong khai thác than hầm lò của Công ty Than Đông Bắc (Ảnh: Internet)

Áp dụng công nghệ hiện đại trong khai thác than hầm lò của Công ty Than Đông Bắc (Ảnh: Internet)

TKV cho rằng, tăng mức thuế là tăng gánh nặng cho ngành Than vốn đã nặng gánh cả hai vai, cho nên kiến nghị các cơ quan chức năng điều chỉnh mức thuế bằng các nước trong khu vực, cụ thể: Mức thuế từ 5 – 7% đối với than khai thác lộ thiên và không tính thuế trên cả lượng đất đá thải ra.

Từ đầu năm đến nay, TKV chưa xuất khẩu một tấn than nào do vẫn đang chờ chỉ đạo của Chính phủ về việc cho phép tiếp tục xuất khẩu than.

Năm 2015, TKV xuất khẩu 1,2 triệu tấn chủ yếu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia và các nước Tây Âu. Cũng trong năm 2015, TKV đã nhập khẩu 460 nghìn tấn than các loại từ Nam Phi, Úc và Nga để cung cấp cho các đơn vị chế biến kinh doanh than trong Tập đoàn để tiêu thụ và pha trộn với than trong nước cấp cho các hộ sử dụng.

Theo Quy hoạch Phát triển ngành Than Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt, năm 2016, than thương phẩm đạt 41 – 44 triệu tấn và dự kiến đến năm 2020 đạt 47 – 50 triệu tấn; năm 2025 đạt 51 – 54 triệu tấn và 55 – 57 triệu tấn vào năm 2030.

Hiện nay, các nhà máy nhiệt điện trong nước chủ yếu sử dụng than antraxit Việt Nam. Tuy nhiên, với nhu cầu than tăng mạnh của các nhà máy nhiệt điện, nguồn than antraxit  trong nước không đủ để cung ứng nên các nhà máy nhiệt điện xây dựng theo quy hoạch phải chuyển sang sử dụng than nhập khẩu.

Theo dự báo, nhu cầu sử dụng than trong nước năm 2016 là 47,5 triệu tấn, năm 2020 là 86,5 triệu tấn, năm 2025 là 121,5 triệu tấn và năm 2030 là 156,6 triệu tấn. Đối chiếu với sản lượng Quy hoạch Phát triển ngành Than, dự báo ở các mốc lộ trình nói trên thì Việt Nam sẽ thiếu hụt một lượng than đáng kể. Cụ thể, mức nhập khẩu năm 2016 là 6,5 triệu tấn, năm 2020 là 36,4 triệu tấn, năm 2025 là 67 triệu tấn và năm 2030 gần 100 triệu tấn.

Trên cơ sở nhu cầu và khả năng sản xuất trong nước, TKV đã xây dựng kế hoạch nhập khẩu than để đảm bảo an ninh năng lượng công nghiệp. Tuy nhiên, nhu cầu nhập than có thể giảm khi ngành Than nội địa mạnh lên. Một trong các yếu tố giúp ngành Than “khỏe” là việc có mức thuế phù hợp để giảm chi phí đầu vào.