Phụ nữ mang thai nên ăn cá biển như thế nào?

ThienNhien.Net – Có một nghịch lý rằng các bà bầu được chuyên gia khuyến cáo nên hạn chế ăn cá biển do chúng có chứa nhiều thủy ngân. Tuy nhiên, cũng theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong cá biển có chứa Omega-3, hợp chất có tác dụng tăng cường sự phát triển não bộ của thai nhi. Những đứa trẻ được sinh ra từ những người mẹ có lượng axit Omega 3 nhiều hơn do hấp thụ thức ăn từ cá trong quá trình mang thai phát triển tốt hơn những đứa trẻ khác. Điều này thể hiện trong hành vi, kỹ năng ứng xử và cả chỉ số thông minh IQ. Câu hỏi được đặt lại, vậy phụ nữ mang thai nên ăn bao nhiêu cá biển, ăn loại nào thì tốt?

Vì sao cá biển chứa nhiều thủy ngân?

Giải đáp cho những khúc mắc này, tờ Tin tức Hoa Kỳ đã có cuộc trao đổi với 2 chuyên gia, đó là bác sĩ Gideon Koren, công tác tại khoa dược lý chữa bệnh và chống độc đồng thời là giám đốc Dự án motherisk ở Toronto (Canada) và PGS. Bác sĩ Emily Oken, khoa ngăn ngừa và chăm sóc phục hồi chức năng Trường Y dược Harvard. Dưới đây là một số kết quả thu được từ cuộc thảo luận:

Nên chọn đúng loại cá biển vì không phải tất cả chúng đều có hàm lượng chất giống nhau

Cá lớn có chuỗi thức ăn phức tạp hơn so với cá nhỏ có xu hướng tích tụ nhiều thuỷ ngân hơn, như vậy kích thước cá là một yếu tố đáng lưu ý.
Bên cạnh đó, không phải tất cả các loại hải sản đều chứa hàm lượng Omega 3 như nhau. Chẳng hạn như, tôm và cá pôlăc có chứa ít thuỷ ngân nhưng lại không giàu omega 3 như các loại hải sản khác. Một số loại cá lại chứa hàm lượng cả thuỷ ngân lẫn omega 3 đều cao.

Cá hồi, nhìn chung dù sống ngoài tự nhiên hoặc được nuôi thả, có xu hướng tích tụ lượng thuỷ ngân thấp, đồng thời lại giàu Omega 3. Tương tự là các loại cá trích, cá hồi masu và cá mòi.

Oken cho biết rằng cá ngừ đóng hộp thường chứa lượng thuỷ ngân vừa phải, còn theo Koren, các loài cá được tìm thấy có hàm lượng thuỷ ngân cao thường là cá ngừ tươi hoặc đông lạnh, cá mập, cá kiếm, cá nhám. Phụ nữ có thai được khuyến nghị nên sử dụng các loại thực phẩm này không quá 2 lần/tháng.

Cục Bảo vệ Môi trường (EPA) cùng với Cục quản lý Dược – Thực phẩm (FDA) của Hoa Kỳ cũng cảnh báo phụ nữ mang bầu nên hạn chế ăn cá thu và cá đầu vuông (một loại cá biển lớn, có đốm vàng trên thân).

Cân bằng giữa hàm lượng Omega 3 và thuỷ ngân là khó khăn

Hai cơ quan này khuyến cáo phụ nữ mang thai nên ăn khoảng 340g, hoặc 2lần/tuần các loại cá và tôm cua có hàm lượng thuỷ ngân thấp, như vậy sẽ hấp thu omega 3 tốt mà không sợ đưa vào cơ thể quá nhiều thuỷ ngân.

Tuy nhiên, hai chuyên gia cho rằng lời khuyên đó chưa đủ tin cậy. Oken cho biết rằng trong một vài nghiên cứu về sự phát triển của bộ não và hành vi, những đứa trẻ được sinh ra từ những người mẹ có 2 hoặc 3 lần ăn cá/tuần có xu hướng phát triển tốt hơn những đứa trẻ khác. Việc hạn chế ăn cá thông qua số lượng tiêu thụ chỉ là một biện pháp thô sơ nhằm hạn chế lượng thuỷ ngân hấp thu vào cơ thể, bởi vì hầu hết mọi người không nhận thức được loại cá nào có chứa nhiều thuỷ ngân hơn so với loại khác. Thậm chí, các loại cá đánh bắt được trong cùng một khu vực cũng có thể tích trữ thuỷ ngân ở các mức độ khác nhau.

Oken nói: “Trong cá và các sản phẩm phụ từ cá như dầu cá, các chất như DHA và EPA, gọi chung là các thành phần của omega 3 đem lại những tác dụng lớn, việc bảo vệ tim mạch khoẻ mạnh là lợi ích lớn nhất mà nghiên cứu về các chất này đem lại. Mặc dù hầu hết các nghiên cứu đều xem DHA là nhân tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ nhưng EPA, mặt khác, có thể đem lại các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thai nhi, như bảo vệ và ngăn ngừa bệnh hen suyễn.”

Tuy vậy, các chuyên gia nhấn mạnh rằng các công trình nghiên cứu đưa ra lời khuyên sử dụng cá hợp lý vẫn chưa phải là kết luận cuối cùng, bởi đến nay vẫn chưa có những bằng chứng rõ ràng.

Ở Mỹ, với các phương tiện hiện đại, người ta có thể làm các xét nghiệm mẫu tóc để xác định lượng thuỷ ngân có trong cơ thể phụ nữ có thai. Từ đó tìm ra lượng chất độc này trong cơ thể của thai nhi. Đối với phụ nữ có thai, hàm lượng thuỷ ngân lớn hơn 0,3 µg/1g tóc có thể dẫn đến các ảnh hưởng có hại cho sự phát triển của thai nhi.

Vì vậy, Koren khuyên rằng những phụ nữ ăn quá nhiều cá trước và trong suốt thời kỳ mang thai nên tiến hành xét nghiệm hàm lượng thuỷ ngân bằng phương pháp trên, để giảm những lo lắng không cần thiết. Đối với những người tránh được nguồn tiếp xúc có thuỷ ngân, theo thời gian hàm lượng thuỷ ngân cao sẽ giảm xuống.
Các chất bổ sung là không bắt buộc với phụ nữ mang thai, tuy nhiên, cũng là vô hại

“Liệu rằng hấp thu từ 200 – 300 mg/ngày sản phẩm có chứa DHA là có hại cho bà bầu? Hầu hết câu trả lời là không” – Oken nói – “Mặc dù không quan tâm đến chi phí, nhưng nếu bạn đang cân nhắc một sản phẩm dầu cá, Oken cảnh báo trực tiếp việc tránh dùng các loại dầu gan cá vì nó thường chứa nhiều chất độc hại.”

Oken tán thành việc các sản phẩm phụ được chiết xuất từ cá nói chung đều an toàn, ông cũng không phản đối việc phụ nữ có thai sử dụng chúng. Tuy nhiên ông khuyến cáo phụ nữ không nên lo lắng về vấn đề sức khoẻ của em bé nếu như họ không sử dụng sản phẩm có chứa omega 3: “Chúng ta nên cẩn trọng với những quảng cáo rằng một số loại thực phẩm là tốt dành cho phụ nữ có thai, bởi vì chúng có thể được diễn giải rằng nếu bạn không dùng thực phẩm đó, em bé sẽ phát triển không tốt”.

Cho đến khi các nhà khoa học đưa ra được những kết luận cuối cùng, phụ nữ đơn giản chỉ cần đưa ra các quyết định khiến họ cảm thấy thật sự thoải mái và hợp lý từ các thông tin nắm được.