Những vấn đề về môi trường từ việc nuôi tôm trên cát

ThienNhien.Net – Do lợi nhuận lớn của việc nuôi tôm trên cát, nguời dân trên địa bàn các xã ven biển của huyện Thăng Bình và Núi Thành, Quảng Nam đã rộ lên phong trào nuôi tôm trên cát một cách tự phát, chính quyền địa phương không kiểm soát nổi. Riêng xã Bình Hải, huyện Thăng Bình đã có hơn 60 hộ nuôi tự phát với hơn 10ha diện tích ao nuôi, chưa kể các xã Bình Minh, Bình Dương, phong trào nuôi tôm cũng đang phát triển mạnh mẽ và số lượng cũng như diện tích ao nuôi cứ tăng lên hàng ngày. Trước những lợi ích trước mắt về lợi nhuận, mô hình nuôi tôm này cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề về môi trường do người dân không có kinh nghiệm về kỹ thuật nuôi và cũng không có tổ chức nào đứng ra hướng dẫn, quản lý.

Nguy cơ ô nhiễm biển và nước ngầm do nước thải

Đợt giám sát môi trường tại huyện Thăng Bình đầu tháng 11 vừa qua cho thấy 100% hộ nuôi đều thải trực tiếp nước thải ra biển mà không qua bất kỳ hình thức xử lý nào. Theo các chuyên gia về nuôi trồng thuỷ sản thì để nuôi được 1tấn tôm thẻ chân trắng thành phẩm thì cần phải cung cấp 1,1 tấn thức ăn và nếu đổ xuống ao 3 tấn thức ăn sẽ còn lại 2 tấn chất thải không được tiêu thụ. Bình quân 1ha nuôi được 10 tấn tôm và một năm nuôi 3 vụ, uớc tính thải ra biển đến 22 tấn chất thải.

Nếu ở quy mô nhỏ hoặc trong một vài năm đầu lượng chất thải có thể chưa gây ra ảnh hưởng đáng kể, nhưng nếu diện tích nuôi lớn và việc thải trong thời gian dài nó có thể gây ô nhiễm môi trường nước ven biển, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, du lịch, quá trình sinh trưởng và phát triển của nguồn lợi hải sản tự nhiên.

Ngoài việc xả nước thải ra biển, nhiều hộ nuôi hiện nay còn xả trực tiếp nước thải và bùn ao nuôi ngay trên khu vực đất cát cạnh bờ đầm nuôi, gây ô nhiễm và mặn hoá nguồn nước ngầm. Dịch bệnh có thể lây lan sang các đầm nuôi khác do sử dụng nước ngầm đã bị nhiễm bệnh, tạo cơ hội bùng phát dịch bệnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất trước mắt và lâu dài.

Cạn kiệt nguồn nước ngọt (đặc biệt là nước ngầm)

Việc nuôi tôm trên cát cần rất nhiều nước, cả nước biển và nước ngọt. Các khu vực nuôi tôm trên cát đều nằm sát biển, nguồn nước mặn có thể nói là vô cùng dồi dào và được bơm trực tiếp từ biển vào, nhưng nguồn nước ngọt lại khan hiếm. Theo tính toán cho thấy, nhu cầu nước ngọt cho 1 ha nuôi trong một vụ là từ 16.000 đến hơn 27.000 m3 nước. Trong khi đó các khu vực nuôi tôm trên cát thường là ở các bãi ngang ven biển, nơi mà nguồn nước ngọt rất hạn chế so với các nơi khác. Nhiều nơi nước ngọt thậm chí còn không đủ cung cấp cho sinh hoạt.

Mặt khác mùa vụ nuôi chính chủ yếu lại là mùa khô, thời điểm khan hiếm nước ngọt trong năm. Nếu việc khai thác nước ngầm cho việc nuôi tôm trên cát quá giới hạn cho phép có thể dẫn đến sụt lở địa tầng, cạn kiệt nguồn nước ngọt (nước ngầm) ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước sinh hoạt của nhân dân và sản xuất nông nghiệp tại các khu vực lân cận.

Theo như một số hộ dân tại thôn Kỳ Tân, xã Bình Hải thì các giếng nước của họ từ một năm trở lại đây không thể sử dụng được. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam đã tiến hành khảo sát và lấy mẫu tại các giếng cận kề các ao nuôi tôm nằm san sát nhau và cho thấy nguồn nước đã bị nhiễm phèn, mùi khí H2S rất nặng.
Thu hẹp rừng phòng hộ, bão cát và suy giảm tiềm năng du lịch.

Rừng phòng hộ (chủ yếu là cây phi lao) ven biển có thể bị ảnh hưởng và chết do nguồn nước ngầm đã bị hút cạn kiệt phục vụ cho nuôi tôm, chưa kể đến việc người dân phá rừng để đào ao.

Bên cạnh đó, việc làm ao, đắp bờ và mở đường đi lại đều phải đào xới cát đã được ổn định tương đối bởi cây hoang dại làm cho mức độ gắn kết của cát yếu đi, tạo điều kiện thêm cho hiện tượng cát bay. Nếu thiếu thận trọng trong quá trình chọn địa điểm xây dựng ao nuôi, việc phát triển ao nuôi không đi đôi với bảo vệ rừng phòng hộ hay trồng rừng che chắn, đặc biệt là các khu vực nhiều gió cát, dễ dẫn đến hiện tượng ao nuôi bị vùi lấp trong quá trình sản xuất.

Ngoài tác động tiêu cực về môi trường, việc nuôi tôm trên cát sẽ phá vở cảnh quan du lịch ven biển, đồng thời gây cản trở cho các dự án phát triển về du lịch trong tương lai.

Từ những vấn đề trên, người dân không nên chạy theo những lợi ích trước mắt về kinh tế từ việc nuôi tôm trên cát đem lại mà quên đi những tác động xấu về môi trường hiện tại cũng như trong tương lai. Các cơ quan chức năng và những đơn vị có liên quan cần có biện pháp nhằm chấm dứt việc nuôi tôm tự phát của các hộ ven biển hiện nay.

So với các tỉnh lân cận, Quảng Nam vẫn còn nhiều cơ hội để có các chiến lược và chính sách kịp thời, hợp lý để đảm bảo tính bền vững của việc phát triển. Việc xây dựng quy hoạch nuôi tôm trên cát phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, trong đó có phần đánh giá trữ lượng nước ngọt (đặc biệt là nước ngầm) để làm căn cứ cho việc đưa ra diện tích nuôi phù hợp.

Điều kiện tiên quyết đối với các dự án phát triển nuôi tôm trên cát tập trung là phải đảm bảo có đủ nguồn nước ngọt, phải xây dựng hệ thống xử lý môi trường hiệu quả, tránh tình trạng thải chất thải bừa bãi gây ô nhiễm môi trường đất, nước. Bên cạnh đó, việc bảo vệ rừng phòng hộ ven biển phải là mục tiêu hàng đầu.