Đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm?

Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản ảnh hưởng rất lớn đối với suy giảm đa dạng sinh học tại Việt Nam. Thực tế con người vừa phụ thuộc vừa phá hủy hệ sinh thái.
Đây là kết luận của Báo cáo “Đánh giá Đa dạng sinh học tại Việt Nam” được Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) và Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ TN&MT) vừa công bố.

Thực tiễn, con người đang hoàn toàn phụ thuộc vào các hệ sinh thái để tồn tại. Thế nhưng, các hệ sinh thái này lại đang ngày ngày bị chúng ta xâm phạm không thương tiếc. Báo cáo cho thấy, 21% các loài thú, 6,5% các loài chim, 19% các loài bò sát, 24% các loài lưỡng cư, 38% các loài cá và 2,5% các loài thực vật có mạch đã bị đe dọa.

Trong gần 20 năm trở lại đây, các khu vực có rừng là sinh cảnh bị ảnh hưởng nhiều nhất với hơn 10.544 km2 diện tích đất rừng bị mất, chủ yếu do chuyển đổi thành đất rừng trồng và đất trồng cây ăn quả. Khoảng 2,8 triệu ha rừng tự nhiên cũng đã bị mất do chuyển đổi sang phát triển các loài cây trồng thương mại khác…

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam bao gồm cả những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp như: Khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên, khai thác gỗ trái phép, buôn bán trái phép các loài hoang dã, các hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng thâm canh nông nghiệp, cũng như các hoạt động sản xuất kinh tế khác nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng gia tăng của con người.

Đi sâu vào vấn đề để thấy, sử dụng tập trung các hệ sinh thái thường đem lại lợi ích ngắn hạn hiệu quả nhất, nhưng cũng là nguyên nhân rơi vào tình trạng quá tải và dẫn tới những tổn thất ghê gớm về lâu dài.

Một quốc gia có thể có GDP cao nhờ việc tàn phá các khu rừng và “vắt kiệt” tài nguyên ngành ngư nghiệp để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đó là sự phát triển thiếu bền vững, về lâu dài, tài nguyên và sinh kế của người dân sẽ không còn. Nếu giá trị kinh tế đầy đủ của các hệ sinh thái được xem xét trong việc đưa ra quyết định của các nhà quản lý thì sự suy thoái sẽ giảm xuống rõ rệt và thậm chí còn được đẩy lùi.

Hệ lụy là suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái đang làm tổn hại đến nhiều người nghèo nhất. Đáng ngại hơn cả lại là nhân tố chính gây ra tình trạng đói nghèo, vì nó làm tăng sự lệ thuộc vào các dịch vụ hệ sinh thái. Điều này sẽ tăng thêm áp lực cho các hệ sinh thái, các nỗ lực giảm đói nghèo cũng như sự suy thoái hệ sinh thái.

Suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái khiến nhiều người lo lắng. (Ảnh minh họa: Nguồn Internet)

Chính vì vậy, đẩy lùi sự suy thoái của các hệ sinh thái trong khi vẫn đòi hỏi chúng đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng của con người là một thách thức lớn. Những thay đổi trong chính sách có thể làm giảm đi nhiều hệ quả tiêu cực của áp lực gia tăng đối với hệ sinh thái. Tuy nhiên, những hoạt động tích cực mà con người đã xúc tiến dường như còn quá khiêm tốn. Và chắc chắn các hệ sinh thái đang bị hủy hoại nặng nề và các dịch vụ hệ sinh thái sẽ còn tiếp tục bị mất đi nếu chúng ta không có những chương trình hành động hữu hiệu.

Trái Đất – nơi cung cấp đầy đủ các điều kiện để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của nhân loại. Chúng ta cần ăn, mặc, đi lại, giao tiếp… tất cả những nhu cầu đó được thỏa mãn bởi các thành phần của tự nhiên là đất, nước, rừng, không khí… Tuy nhiên, trong số 51 tỉ ha diện tích bề mặt, Trái Đất chỉ có thể cung cấp cho con người 18% diện tích có khả năng tạo năng suất sinh học để thỏa mãn những nhu cầu trên.

Rõ ràng, điều chúng ta cần là một chuẩn mực để đánh giá và định hướng nhu cầu sử dụng, điều này giúp chúng ta xác định được “điểm ngưỡng nhu cầu” – mức nhu cầu được thỏa mãn mà không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái.

Còn nếu vẫn áp đặt tư duy phát triển nóng, tiếp tục bào mòn, bóp nghẹt hệ sinh thái – chính là chúng ta đang tự bào mòn đi chất lượng sống của chính mình.