Đánh giá lợi ích kinh tế, sinh thái từ phục hồi rừng ngập mặn

Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá về tác động của các dự án phục hồi rừng ngập mặn nhưng do được thực hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau nên chưa thể khái quát thành bức tranh chung.

Nhằm xác định lợi ích kinh tế và sinh thái của việc phục hồi rừng ngập mặn qua các nghiên cứu, các nhà nghiên cứu Đại học Quốc gia Singapore đã phân tích 188 bài báo được bình duyệt từ 22 khu vực. Kết quả chỉ ra rằng các chức năng hệ sinh thái của rừng ngập mặn phục hồi cao hơn các bãi triều trống nhưng thấp hơn rừng ngập mặn tự nhiên. Đặc biệt, lợi ích kinh tế của các dự án phục hồi rừng ngập mặn lớn hơn nhiều so với chi phí thực hiện chúng.

Rừng ngập mặn ở thành phố Puerto Princesa thuộc Palawan, Philippines. Ảnh: Kino Obusan/ Wikimedia Commons (CC BY-SA 4.0)

Trong những khu rừng ngập mặn xanh tươi và thiếu ánh sáng ở Tây Papua, Indonesia, những cây đước cao hơn 40 m vẫn tiếp tục vươn cao cùng bộ rễ chằng chịt. Trong khi ở ngoài đại dương ở Caribê, rừng ngập mặn thuộc cùng chi có chiều cao tối đa 2 m vẫn là những cây bụi còi cọc sau nhiều thập kỷ sinh trưởng.

Dan Friess, Phó Giáo sư và người đứng đầu Phòng thí nghiệm Rừng ngập mặn tại Đại học Quốc gia Singapore cho biết rừng ngập mặn có nhiều dạng như vậy là bằng chứng về khả năng thích nghi của chúng. Tuy nhiên, các dự án phục hồi rừng ngập mặn có một số tỷ lệ thất bại cao nhất, trong đó có những nỗ lực phục hồi sai lầm, chẳng hạn như trồng sai loài ở vị trí không đúng với mật độ không phù hợp.

“Có một quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng vì rừng ngập mặn mọc ven biển nên chúng rất thích nước biển. Nhưng thực sự chúng chỉ đang chịu đựng điều đó”, Friess nói. “Đó là một môi trường rất căng thẳng và là lý do tại sao rất nhiều dự án phục hồi rừng ngập mặn thất bại”.

Theo nghiên cứu mới từ Friess và các đồng nghiệp, bất chấp những khó khăn, canh tác ở những khu rừng chịu mặn mang lại nhiều lợi ích về mặt sinh thái hơn so với những bãi triều trống trải, từ thu nhập về du lịch sinh thái cho đến bảo vệ bờ biển. Ngoài ra, việc khôi phục thành công các khu rừng ngập mặn cũng hứa hẹn mang lại lợi nhuận kinh tế.

Rừng ngập mặn được trồng mới tại tỉnh Trà Vinh. Ảnh: Michael Tatarski.

Các nghiên cứu về rừng ngập mặn từ lâu đã đánh giá tác động của các dự án phục hồi đối với hệ sinh thái và sinh kế từ thu giữ và lưu trữ các-bon đến phục vụ như một vườn ươm thủy sản. Tuy nhiên, do mỗi nghiên cứu có bối cảnh và phương pháp nghiên cứu riêng biệt nên các kết quả không dễ dàng được khái quát hóa.

Để so sánh và tóm tắt các lợi ích sinh thái và kinh tế của rừng ngập mặn được phục hồi qua các nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã phân tích 188 bài báo được bình duyệt từ 22 khu vực, chủ yếu ở Đông và Đông Nam Á. Họ phát hiện ra rằng các chức năng hệ sinh thái của rừng ngập mặn phục hồi cao hơn các bãi triều chưa được cải tạo nhưng thấp hơn rừng ngập mặn tự nhiên.

“Chúng tôi biết rừng ngập mặn tự nhiên sẽ ở trên cùng [mang lại lợi ích lớn nhất], rừng ngập mặn phục hồi ở giữa và rừng ngập mặn không bị xâm thực ở phía dưới. Nhưng điều chúng tôi không biết là rừng ngập mặn được phục hồi nằm ở đâu trong hai thái cực này. Điều đáng ngạc nhiên là đối với một số chức năng của hệ sinh thái, rừng ngập mặn được phục hồi khá gần với rừng ngập mặn tự nhiên ngay cả khi chúng chỉ mới trồng được 10 – 15 năm tuổi”, Friess nói

Định lượng thêm về lợi ích kinh tế của các dịch vụ hệ sinh thái này và so sánh chúng với chi phí trồng rừng, kỹ thuật, lao động và các chi phí khác, các nhà nghiên cứu nhận thấy các dự án phục hồi rừng ngập mặn về tổng thể là hiệu quả về mặt chi phí. Họ tính toán rằng tỷ lệ lợi ích – chi phí dao động từ 10,5 đến 6,83 với tỷ lệ chiết khấu từ -2% đến 8%. Mặc dù vậy, việc bảo vệ và duy trì rừng ngập mặn hiện có vẫn hiệu quả nhất về mặt chi phí với tỷ lệ lợi ích – chi phí cao tới 16,75 so với tỷ lệ chiết khấu -2%.

Quang cảnh từ trên không của một thung lũng ven biển ở Indonesia, nơi rừng ngập mặn đã bị chặt phá với các ao nuôi tôm và cá được thiết lập ở vị trí của chúng.

Khi hành tinh nóng lên, sự quan tâm của các nhà đầu tư đến các dự án phục hồi và bảo tồn rừng ngập mặn cũng cao hơn. Rừng ngập mặn cô lập lượng carbon gấp 4 lần so với rừng nhiệt đới khiến chúng trở thành những giải pháp khí hậu dựa vào thiên nhiên hấp dẫn trong thị trường bù đắp carbon đang bùng nổ.

Các chính phủ cũng ngày càng chú ý tới loại hình rừng này. Với khả năng chống lại các cơn bão nhiệt đới thường xuyên, rừng ngập mặn đóng vai trò là vùng đệm tự nhiên và hiệu quả cho các cộng đồng ven biển. Khi các điểm nóng về động vật hoang dã và các-bon chìm dần, chúng đóng góp vào các cam kết toàn cầu về bảo tồn đa dạng sinh học và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Ở Đông Nam Á, Indonesia đang đặt mục tiêu khôi phục khoảng 600.000 ha rừng ngập mặn vào năm 2024.

Cho đến nay, các nỗ lực phục hồi rừng ngập mặn thông thường bao gồm việc trồng hàng loạt cây con đã thất bại nhiều hơn là thành công. Các dự án sai lầm đã dẫn đến việc rừng ngập mặn được trồng trên các môi trường sống như đồng cỏ biển và bãi bồi – điều này không những không phù hợp mà còn phá vỡ các hệ sinh thái hiện có. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các phương pháp kỹ thuật sinh thái mới hơn đã mang lại kết quả tốt hơn. Các dự án như vậy điều chỉnh dòng chảy của nước và phù sa để giảm lũ lụt và cung cấp một môi trường thích hợp hơn để rừng ngập mặn tái sinh tự nhiên.

“Cần phải chuẩn bị nhiều hơn nhưng nếu bạn cải tạo môi trường vật lý trước khi để rừng ngập mặn phát triển, bạn sẽ có được những hệ sinh thái phức tạp và giàu loài hơn với các chức năng tốt hơn. Mặc dù các phương pháp phục hồi ngày càng trở nên phức tạp hơn nhưng rừng ngập mặn được phục hồi mang lại ít lợi ích kinh tế và sinh thái hơn rừng ngập mặn tự nhiên, và việc phục hồi không thể thay thế bảo tồn. Bảo tồn luôn phải là bước đầu tiên. Nhiều quốc gia đang bắt đầu thiết lập các chính sách về bảo tồn và phục hồi rừng ngập mặn… Chúng ta phải tận dụng động lực này nhưng chúng ta phải làm đúng”, Friess nhấn mạnh.

Thảo Vy (Theo Mongabay)

Nguồn: