Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp của Quảng Nam dẫn đầu cả nước

ThienNhien.Net – Theo Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội của Tổng cục Thống kê tháng 11, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 7,2% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,1%, sản xuất và phân phối điện tăng 12,9%, cung cấp nước và xử lý rác thải-nước thải tăng 8,5%, riêng ngành khai khoáng giảm 13,8%.

Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)

Như vậy, tính chung 11 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp cả nước đã tăng 7,3% so với cùng kỳ, song vẫn thấp hơn mức tăng 7,4% của 10 tháng và thấp hơn nhiều so với mức tăng 9,9% của cùng kỳ năm 2015.

Cụ thể, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng 11%, đóng góp 7,7 điểm phần trăm, ngành sản xuất, phân phối điện tăng 12,3%, góp 0,8 điểm phần trăm, ngành cung cấp nước – xử lý rác thải, nước thải tăng 7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, ngành khai khoáng vẫn chứng kiến sự tụt dốc, với mức giảm sâu 6,3% và làm giảm 1,3 điểm phần trăm trong mức tăng chung.

Trong ngành công nghiệp cấp II, lĩnh vực sản xuất kim loại và ngành dệt có mức tăng chung 17,3%, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 12,7%, sản xuất và phân phối điện tăng 12,3%. Ngoài ra, một số ngành đi xuống là khai thác than giảm 0,1%, khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 8,3%.

Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)

Về địa phương, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp của Quảng Nam dẫn đầu cả nước với mức tăng 30,6%, theo đến Thái Nguyên tăng 24,5%, Hải Phòng tăng 16,7% và Đà Nẵng tăng 13%. Hai đầu tàu kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,3% và Hà Nội tăng 7,1%.

Về chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tháng Mười tăng 2,9% so với tháng Chín và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2015.

Trong 10 tháng, chỉ số tiêu thụ của ngành này đã tăng 8,3% so với cùng kỳ ( tuy nhiên cùng kỳ năm 2013 tăng 12,8%). Một số ngành có chỉ số tiêu thụ cao, phải kể đến sản xuất xe có động cơ tăng 19,9%, sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 16,1%, sản xuất đồ uống tăng 11,6%, riêng lĩnh vực sản xuất phương tiện vận tải giảm 1,2%.

Điểm đáng chú ý, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 1/11 đã tăng 8,8% so với cùng kỳ, trong đó tăng cao hơn mức tăng chung là sản xuất giấy (+110,3%), sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (+49,7%), Báo cáo chỉ ra nguyên nhân chủ yếu là tồn kho điện thoại di động Samsung chờ xuất khẩu.

Như vậy, tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 10 tháng của năm là 66,9%.

Ngoài ra, lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/11 có dấu hiệu khả quan, với mức tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước.

Tuy nhiên theo Báo cáo, số lượng việc làm trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã giảm 2,6%, bên cạnh đó tại khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước lại tăng 1,7%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 7,4%.

Tại thời điểm này, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 7,2% so với cùng kỳ, trong khi ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5%.

Về việc làm tại các địa phương, lao động của các doanh nghiệp công nghiệp (1/11 so với cùng thời điểm năm 2015) tại Thái Nguyên tăng 28,4%, Hải Phòng tăng 10,3%, Vĩnh Phúc tăng 8,4% và Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 7,9%, trong khi Hải Dương giảm 0,8%, Quảng Ninh giảm 3,3% (do lao động ngành than giảm).