Tranh cãi chuyện đóng góp tài chính chống biến đổi khí hậu ở COP27

Thông điệp Mỹ mang đến hội nghị thượng đỉnh COP27 ở Ai Cập không như các nước khác mong muốn: Chỉ muốn tăng sức ép về luật và né tránh vấn đề đóng góp tài chính.

Khi Tổng thống Mỹ Joe Biden dự hội nghị thượng đỉnh khí hậu của Liên hợp quốc vào ngày 4/11, ông có thể đã tự hào mong muốn đưa Mỹ trở lại cuộc chiến toàn cầu để bảo vệ hành tinh, và rời xa nhiên liệu hóa thạch.

Nhưng thay vì được ca ngợi vì thông qua điều luật về khí hậu mang tính bước ngoặt, ông tham gia một cuộc họp mà các quốc gia đang phát triển đã dành cả tuần để chỉ trích Mỹ và các quốc gia công nghiệp phát triển khác vì gây ra biến đổi khí hậu, và kêu gọi bồi thường. Một số nhà lãnh đạo châu Âu đã bắt đầu hồi đáp đề nghị bằng các cam kết về tiền, buộc Mỹ có thể phải làm điều tương tự.

Hơn 100 nguyên thủ quốc gia tham dự Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu – COP27.(Ảnh: Reuters)

“Bạn phải trả phần của mình”

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nói châu Âu đã và đang giúp đỡ các nước nghèo hơn, và các quốc gia phương Tây khác cần phải làm nhiều hơn nữa. Ông nói: “Người châu Âu đang trả tiền. Chúng tôi là những người duy nhất trả tiền”.
Ông nói thêm: “Phải gây áp lực lên các quốc gia giàu có ngoài châu Âu, nói với họ rằng ‘bạn phải trả phần của mình’ một cách công bằng”. Những điều Tổng thống Pháp nói dường như đề cập không giấu giếm đến Mỹ.

Nhưng khi quyền kiểm soát trong Quốc hội Mỹ thuộc về ai vẫn chưa rõ ràng, Tổng thống Biden không thể làm được nhiều. Nếu đảng Cộng hòa nắm quyền vào tháng 1 tới, số tiền có thể chi để giúp các quốc gia nước ngoài đối phó với biến đổi khí hậu được dự đoán sẽ giảm đi, đi kèm những ngừng trệ khác trong chương trình nghị sự về khí hậu của tổng thống.

Và ngay cả khi đảng Dân chủ chiếm đa số và kiểm soát đồi Capitol, ông Biden cũng không thực hiện được lời hứa của Mỹ là đóng góp vào quỹ để giúp đỡ các quốc gia nghèo đang phải vật lộn với lũ lụt, hỏa hoạn, hạn hán và nắng nóng – những hiện tượng khí hậu khắc nghiệt mà họ không đóng vai trò lớn trong việc gây ra chúng, nhưng chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng để ứng phó.

Năm 2021, Tổng thống Biden cam kết chi 11,4 tỷ USD mỗi năm cho đến năm 2024 cho vấn đề này. Nhưng sau đó ông chỉ bảo đảm đươc 1 tỷ USD từ Quốc hội do đảng Dân chủ kiểm soát.

Rachel Kyte, hiệu trưởng Trường Ngoại giao Fletcher thuộc Đại học Tufts, cho rằng: “Trong khi nhiều quốc gia đánh giá cao nỗ lực của ông Biden, một số xem đó là không đủ. Bạn nghe thấy những lời giống như những lưỡi dao sắc bén từ các nước đang phát triển. Các nhà lãnh đạo châu Phi nói: ‘Chúng tôi luôn hiểu rằng Quốc hội Mỹ rất khó khăn. Nhưng người dân Mỹ không hiểu điều gì đang xảy ra với hành tinh hay sao?’”

Tổng thống Mỹ Joe Biden là nhà lãnh đạo duy nhất của một quốc gia gây ô nhiễm lớn tham dự cuộc đàm phán về khí hậu ở Ai Cập. Lãnh đạo các nước khác như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Tổng thống Nga Vladimir Putin và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đều không có mặt.

Thông điệp mà Mỹ mang đến hội nghị thượng đỉnh COP27 ở Ai Cập có thể không giống với những gì các nước khác mong muốn. (Ảnh: The Washington Post)

Ông Biden hy vọng có thể kết nối với ông Tập tại các cuộc họp G20 vào tuần tới ở Bali. Các cuộc đàm phán về khí hậu giữa Mỹ và Trung Quốc, hai quốc gia phát thải lớn nhất thế giới, phần lớn đã bị đóng băng kể từ tháng 8 do căng thẳng xung quanh Đài Loan, nhân quyền và các vấn đề khác. Hai nước cũng đã có các cuộc gặp không chính thức trong tuần này tại hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc, giữa ông John Kerry, đặc phái viên khí hậu của Tổng thống Biden và người đồng cấp Trung Quốc, Giải Chấn Hoa, có thể tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán thực chất giữa các lãnh đạo của họ ở Bali.

Nhưng sự vắng mặt ở Ai Cập của các nhà lãnh đạo các quốc gia phát thải lớn khiến ông Biden càng trở thành mục tiêu của các quốc gia đang phát triển.

Là quốc gia giàu có nhất thế giới và là quốc gia phát thải khí nhà kính lớn nhất trong lịch sử, Mỹ đã vắng mặt trong các cuộc thảo luận tại hội nghị thượng đỉnh tuần này về một quỹ “tổn thất và thiệt hại” mới để bù đắp cho các tác động mà họ không thể phục hồi, như một thị trấn ven biển biến mất do nước biển dâng.

Quỹ này sẽ bổ sung cho một thỏa thuận năm 2015 do Liên hợp quốc xây dựng, trong đó các quốc gia giàu có đồng ý cung cấp 100 tỷ USD mỗi năm từ các nguồn công và tư cho các nước đang phát triển để giúp họ giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và chuyển hướng khỏi nhiên liệu hóa thạch.

Ông Biden ký Đạo luật Giảm lạm phát và khoản đầu tư kỷ lục 370 tỷ USD vào các loại năng lượng sạch như gió và năng lượng mặt trời, hứa hẹn sẽ cắt giảm đáng kể lượng khí nhà kính do Mỹ tạo ra.

Hứa nhiều, làm ít

Trong nhiều thập kỷ, các quốc gia giàu có, gây ô nhiễm đã phớt lờ lời kêu gọi bù đắp cho những thiệt hại này. Về mặt pháp lý và thực tế, rất khó xác định “tổn thất và thiệt hại” là gì, xác định những gì có thể phải trả và ai sẽ phải trả bao nhiêu.
Nhưng những vết nứt của “thế trận phòng ngự” đó đang bắt đầu lộ ra. Tại hội nghị thượng đỉnh về khí hậu năm ngoái, Scotland, nước chủ nhà, đã trở thành nước đầu tiên cam kết chi tiền cho một quỹ bồi thường tổn thất và thiệt hại mới. Tuần này, bà Ursula von der Leyen, Chủ tịch Ủy ban châu Âu, cũng tán thành các cam kết bằng tiền mặt của Ireland, Đan Mạch và Bỉ. Hôm 9/11, ông Giải, nhà đàm phán về khí hậu của Trung Quốc, hiện là quốc gia phát thải lớn nhất hành tinh, cũng ủng hộ ý tưởng về quỹ tổn thất và thiệt hại nhưng cũng thận trọng khi nói về đóng góp của Trung Quốc.

Nhiều quốc gia châu Âu có quan hệ thuộc địa với các quốc gia đang phát triển đang tìm kiếm nguồn quỹ, một mối quan hệ càng củng cố lập luận về bồi thường trong mắt một số người.

“Thực tiễn chủ nghĩa thực dân đã chuyển các nguồn tài nguyên phong phú của châu Á và châu Phi sang châu Âu để công nghiệp hóa các nước của họ, đây cũng là nguyên nhân sâu xa của biến đổi khí hậu – hậu quả mà chúng ta, những nước nghèo, buộc phải gánh chịu”, Tổng thống Sri Lanka Ranil Wickremesinghe nói.

“Điều đó càng làm những tổn thương, thiệt hại do điều kiện thời tiết khắc nghiệt gây ra lớn hơn và gây tác động tốn kém hơn”, ông nhấn mạnh.

Quan chức Mỹ nói bầu cử giữa kỳ không ảnh hưởng đến các kế hoạch về khí hậu của nước này. (Ảnh minh họa)

Nhưng tại Mỹ, ý tưởng trả tiền bồi thường cho các quốc gia xa xôi sẽ là “một thảm họa chính trị trong nước”, theo Paul Bledsoe – cố vấn khí hậu dưới thời Tổng thống Bill Clinton và hiện là giảng viên tại Đại học Mỹ. Ông nói rằng nó sẽ “làm tê liệt” cơ hội tái đắc cử năm 2024 của ông Biden.

Ông Bledsoe nói: “Về mặt văn hóa, nước Mỹ không thực sự muốn đền bù. Nếu không phải là người Mỹ bản địa hoặc người Mỹ gốc Phi, họ có rất ít hoặc gần như không muốn xem xét nghiêm túc tác động khí hậu đối với các quốc gia khác. Đó sẽ là một sự thay đổi hoàn toàn trong nền chính trị của chúng tôi”.

Hơn một nửa số cử tri đã đăng ký tin rằng Mỹ có ít nhất một phần trách nhiệm trong việc tăng cường đóng góp cho các quốc gia đang phát triển, để giúp bảo vệ họ chống lại biến đổi khí hậu, theo một cuộc khảo sát của Morning Consult/Politico được công bố trong tuần này. Nhưng có một sự chia rẽ đảng phái rõ ràng, khả năng đóng góp của Dân chủ cao gấp đôi so với đảng Cộng hòa trong vấn đề ngăn biến đổi khí hậu.

Bị dồn ép từ mọi phía, ông Biden và các cố vấn của ông phải cẩn trọng xoay quanh vấn đề tiền bạc. Ông Kerry đồng ý chỉ thảo luận về ý tưởng quỹ.

Thay vào đó, các quan chức Nhà Trắng đang cố gắng tập trung lại sự chú ý vào thành tích của ông Biden, ký Đạo luật Giảm lạm phát và khoản đầu tư kỷ lục 370 tỷ USD vào các loại năng lượng sạch như gió và năng lượng mặt trời, hứa hẹn sẽ cắt giảm đáng kể lượng khí nhà kính do Mỹ tạo ra.

Tuần này, một nhóm các cố vấn cấp cao của Nhà Trắng đã đến thị trấn nơi các cuộc đàm phán về khí hậu đang được tổ chức để khẳng định rằng, các điều luật và kế hoạch cắt giảm khí thải của Mỹ sẽ không đảo ngược. Đó là sự đảm bảo mà nhiều nhà ngoại giao nước ngoài đã tìm kiếm, vì Mỹ đã hai lần rút khỏi các cam kết về khí hậu toàn cầu kể từ những năm 1990.

Ali Zaidi, cố vấn khí hậu quốc gia của Nhà Trắng, cho biết: “Không có gì cản trở điều này”. Ông lưu ý rằng các khoản đầu tư của luật mới vào năng lượng gió, năng lượng mặt trời, lưu trữ pin và năng lượng sạch khác hiện được đưa vào các chương trình thuế của Mỹ. “Chúng tôi có thể có những thất bại, nhưng chúng tôi đang đi trước và đáp ứng các cam kết của mình”, ông khẳng định.

Nhưng Andres Mogro, một nhà đàm phán về khí hậu của một khối các quốc gia bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Bangladesh và Zimbabwe, cho biết luật khí hậu mới và những gì nó hứa hẹn với người Mỹ là “thực lòng không liên quan” đến các quốc gia đang phát triển, những nước hiện đang cần tiền để phục hồi sau các thảm họa khí hậu trong quá khứ, chuẩn bị cho các thảm họa trong tương lai cũng như chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch.

“Thành thật mà nói, chúng tôi không mong đợi bất cứ điều gì từ Tổng thống Biden”, Richard Sherman, nhà đàm phán chính của một khối các quốc gia châu Phi cho biết. Ông tóm tắt cách các nước đang phát triển nhìn nhận về Mỹ là: “Họ có xu hướng hứa rất nhiều, cam kết rất nhiều nhưng thực hiện lại rất ít”.

Nigel Topping, quan chức cấp cao về khí hậu của Liên hợp quốc, lưu ý rằng Mỹ đã không thực hiện được những gì các tổ chức độc lập ước tính là khoản chia sẻ tài chính khí hậu công bằng của mình.

Vào năm 2020, Mỹ chỉ đưa ra 5% những gì họ nên đóng góp, theo một báo cáo gần đây. Ông Topping lập luận rằng tất cả các nước đều đã đưa ra cam kết mà họ cần tuân thủ, bất kể chu kỳ bầu cử.

“Phàn nàn rằng nền chính trị của bạn đang khó khăn là sự xúc phạm đối với mọi quốc gia khác. Về chính trị thì ai cũng khó khăn”, ông nói.

Tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt trên toàn cầu. (Ảnh minh họa)

Lượng khí thải thay đổi thế nào sau COP27?

Theo South China Morning Post, một nghiên cứu mới cho biết, lượng khí thải carbon dioxide (CO2) ở Trung Quốc và Liên minh châu Âu dự kiến ​​sẽ giảm trong năm nay, trong khi ở Ấn Độ và Mỹ có khả năng tăng.

Cụ thể, theo Báo cáo Ngân sách Carbon Toàn cầu 2022, vào năm nay, Trung Quốc dự kiến ​​sẽ chịu trách nhiệm cho 32% lượng khí thải CO2 từ nhiên liệu hóa thạch trên thế giới, tiếp theo là Mỹ với 14%. 27 nước thành viên EU và Ấn Độ đều chiếm 8%.

Theo nghiên cứu, Trung Quốc và Liên minh châu Âu đều có lượng khí thải năm nay giảm, lần lượt là 0,9 và 0,8%, trong khi của Ấn Độ sẽ tăng 6% và từ Mỹ là 1,5%. Giám đốc điều hành của dự án Pep Canadianell cho biết mức giảm ước tính của Trung Quốc là nhỏ nhưng “rất đáng kể”.

Báo cáo cũng được ​​đưa ra tại COP27. Các quốc đảo có nguy cơ biến mất vì mực nước biển dâng cao, đã nói rằng các nền kinh tế mới nổi gây ô nhiễm nặng, bao gồm Trung Quốc và Ấn Độ, nên đóng góp vào quỹ bồi thường để giúp các quốc gia khác tái thiết sau những sự kiện như vậy.

Nghiên cứu dựa trên số liệu thống kê năng lượng và dữ liệu sản xuất xi măng tính đến tháng 10 cho thấy, lượng khí thải toàn cầu trong năm nay có khả năng cao hơn một chút so với mức trước đại dịch. Các nhà nghiên cứu cho biết “chưa có dấu hiệu cho thấy sự suy giảm khí thải cần kíp để đối phó với biến đổi khí hậu đang xảy ra”.

Mặc dù các dự báo khác nhau của báo cáo về bốn nền kinh tế gây ô nhiễm lớn nhất thế giới có thể tác động đến các cuộc đàm phán, các nhà phân tích môi trường cho biết chúng không có khả năng tác động đáng kể đến chương trình nghị sự chính ở Ai Cập.

Bình luận về báo cáo, Yang Fuqiang, cố vấn cấp cao tại Viện Năng lượng của Đại học Bắc Kinh, người không tham gia vào báo cáo, cho biết sự sụt giảm lượng khí thải carbon của Trung Quốc trong năm nay – được cho là do tác động của các đợt phong tỏa chống COVID-19 – có thể chỉ là ngắn hạn và nước này dự kiến ​​sẽ phát thải nhiều carbon dioxide hơn trong hai đến ba năm tới. Trung Quốc đã đặt mục tiêu đạt mức phát thải cao nhất vào năm 2030 như một phần của con đường tiến tới trung hòa carbon vào năm 2060.

Trong khi đó, lượng khí thải của Mỹ đạt đỉnh vào năm 2005 và dự kiến ​​sẽ tiếp tục có xu hướng giảm, Yang nói. Mặc dù lượng khí thải năm nay của Mỹ tăng đột biến, được cho là do sự phục hồi kinh tế hậu COVID-19. “Báo cáo có thể không có tác động lớn đến các cuộc đàm phán COP27 vì những thay đổi về lượng khí thải là một hiện tượng ngắn hạn”.

Ở Mỹ, Tổng thống Joe Biden đã cam kết giảm lượng khí thải carbon xuống 50-52% mức năm 2005 vào năm 2030 như một phần của mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Tuy nhiên, Yang nhận định “lượng khí thải CO2 ở Mỹ sẽ giảm xuống” nhưng sẽ khó đạt được mục tiêu năm 2030.

“Than vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong ngành năng lượng của Mỹ và năng lượng tái tạo không phát triển nhanh như mọi người nghĩ”.