Quản lý xả thải tại các khu công nghiệp ven biển

ThienNhien.Net – Hầu hết các khu kinh tế, công nghiệp ven biển hiện nay đều “có vấn đề” về môi trường, trong đó sự cố ở Vũng Áng là sự cố có tác động rộng lớn và nghiêm trọng đầu tiên.

Đây là lời cảnh tỉnh cho các nhà quản lý trong việc kiểm tra, giám sát công tác môi trường ở tất cả các khu kinh tế, công nghiệp ven biển.

Lỗ hổng quản lý

Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay, cả nước có 16 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích đất và mặt nước là hơn 800.000 ha. Với địa hình đường bờ biển trải dài từ Bắc xuống Nam, các khu kinh tế ven biển phân bổ đều khắp các tỉnh, thành phố trên cả 3 miền. Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, việc kiểm soát về xả thải tại các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển là hết sức cần thiết, nhất là sau khi đã xảy ra sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại Khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh).

Trong vụ việc Công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải khiến hải sản chết hàng loạt ở 4 tỉnh miền Trung, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng đã thừa nhận có nhiều lỗ hổng về quản lý môi trường. Theo Bộ trưởng, việc quản lý xả thải đối với với Formosa Hà Tĩnh có thể được thực hiện theo 2 loại Quy chuẩn Quốc gia. Trong đó, Quy chuẩn 40 áp dụng đối với nước thải công nghiệp và Quy chuẩn 52 kiểm soát nước thải đối với ngành công nghiệp gang thép. Trên thực tế Quy chuẩn 40 kiểm soát nhiều thông số hơn. Còn Quy chuẩn 52 chỉ kiểm soát 12 thông số, tức là yêu cầu thấp hơn. Theo ông, trong trường hợp này phải áp dụng cả hai loại quy chuẩn.

Cần bổ sung và nâng cao quy chuẩn về xả thải đối với các khu công nghiệp nói chung và khu công nghiệp ven biển nói riêng (Ảnh: Đình Huệ - TTXVN)
Cần bổ sung và nâng cao quy chuẩn về xả thải đối với các khu công nghiệp nói chung và khu công nghiệp ven biển nói riêng (Ảnh: Đình Huệ – TTXVN)

“Đối với vụ việc Formosa, ngay từ đầu ta chưa tiên lượng được ngành công nghiệp gang thép sẽ xả lượng nước thải lớn, chưa tính toán xây dựng quy chuẩn quản lý như thế nào cho hợp lý… Cách quản lý xả thải hiện là chưa sát với tình hình và chưa tiên lượng được các nguồn thải của Công ty Formosa Hà Tĩnh”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà thừa nhận.

Cùng với đó, đánh giá của hệ thống giám sát môi trường tự động cũng chỉ quan trắc được 6 thông số, còn các nguyên tố đặc biệt như: phenol, cyanua và sắt không quan trắc được. Bộ trưởng Trần Hồng Hà đánh giá: “Đây là các vấn đề trong quá trình thử nghiệm đã tồn tại và pháp luật rõ ràng là có lỗ hổng nên không có sự giám sát của Trung ương và địa phương thời gian qua”.

Theo các chuyên gia môi trường, không chỉ Vũng Áng mà ở nhiều khu kinh tế ven biển cũng đã xảy ra tình trạng ô nhiễm do xả thải. Các khu kinh tế ven biển như Dung Quất (Quảng Ngãi), Nghi Sơn (Thanh Hóa) có một số điểm ô nhiễm dầu mỡ cao gấp 4 – 6 lần cho phép. Đặc biệt, một số khu kinh tế ven biển chưa thực hiện nghiêm cam kết bảo vệ môi trường (trong báo cáo đánh giá tác động môi trường), thường xả nước thải chưa xử lý vượt quy chuẩn cho phép.

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi – nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo – cho rằng, một số dự án công nghiệp ven biển đang được xây dựng như Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng), Phú Quốc (Kiên Giang), Dung Quất – Chu Lai cũng cần được xem xét đánh giá kỹ. Ví dụ như cảng Lạch Huyện tại Đình Vũ – Cát Hải được kỳ vọng sẽ thành cảng quốc tế hiện đại bậc nhất nhưng cũng có nhiều lo ngại, bởi cảng nằm trong vùng có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên biển và lục địa, không ít giá trị là di sản cấp quốc tế như Vịnh Lan Hạ, quần đảo Long Châu… khu vực đó dòng chảy quẩn nên nếu có sự cố sẽ rất khó xử lý và một số khu vực khác như Nghi Sơn (Thanh Hóa), Dung Quất cũng cần có đánh giá và kiểm tra về những tác động môi trường.

Cần bổ sung và nâng cao quy chuẩn

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi cho biết, hiện nay, các KCN ven biển còn chưa lấp đầy nên chúng ta còn cơ hội để thay đổi. Đó là sự sàng lọc đầu tư, quy định điều kiện nào để địa phương hoặc cơ quan quản lý phê duyệt đầu tư và cùng với đó phải có chế tài giám sát, quy trình giám sát. Cần xây dựng thói quen từ chối dự án nếu dự án đó là dự án “đen” của doanh nghiệp có nhiều vi phạm hoặc bản thân dự án có nhiều nguy cơ đối với môi trường. Điều này cần có cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành địa phương. Với quy chuẩn quy định đồng nhất không thể có chuyện địa phương này từ chối mà địa phương kia lại nhận đầu tư được.

Ông Hồi đề xuất, tất cả ống thải tại các KCN khi xử lý xong cần phải được đưa vào một hồ điều hòa giúp lắng tự nhiên rồi mới được đưa ra hệ thống ống nổi thải ra biển. Khâu cuối cùng phải giám sát chính là ở hồ này. Hồ phải được xây dựng nằm ngoài khu của doanh nghiệp, để có thể giám sát và kiểm tra thường xuyên một cách chủ động. Cùng với đó, cần học tập kinh nghiệm của các nước, thực hiện kiểm kê định kỳ nguồn thải 2 năm một lần đối với toàn bộ KCN.

PGS.TS Vũ Thanh Ca, Vụ Hợp tác quốc tế và Khoa học công nghệ, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cũng đề nghị bổ sung quy định về đánh giá tác động môi trường. Theo đó, chúng ta cần rà soát hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là các văn bản dưới luật. Trước hết, cần rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy chuẩn môi trường của nước thải theo hướng chặt chẽ hơn. Hiện nay, quy định về đánh giá tác động môi trường với các dự án phát triển mới chỉ xem xét tác động của riêng dự án đang được xem xét mà chưa cần đánh giá tác động tổng hợp của tất cả các dự án đang hoạt động và xả thải ra khu vực biển. Do vậy, cần phải quy định cụ thể hơn về việc đánh giá tác động của xả thải trong các điều kiện cực đoan nhất để đảm bảo lượng thải không vượt quá sức chịu đựng của môi trường.

Đối với các nhà máy, khu công nghiệp có lượng xả nước thải lớn, cần có hệ thống đo đạc tự động các thông số môi trường của nước thải tại chỗ và truyền số liệu đo đạc về trung tâm quan trắc môi trường của cơ quan quản lý nhà nước.

 

Luật sư Đặng Xuân Cường, Văn phòng Luật sư Trương Anh Tú, đoàn luật sư Thành phố Hà Nội: Mức xử phạt vi phạm chưa đủ sức răn đe

Pháp luật hiện hành đã có tương đối đầy đủ các văn bản quy định về việc xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường trong đó có hành vi xả thải không đạt yêu cầu. Tuy nhiên, vẫn có tình trạng doanh nghiệp chấp nhận bị phạt còn hơn đầu tư hệ thống xử lý do mức xử phạt vi phạm theo quy định hiện hành với nhiều trường hợp là chưa đủ sức răn đe. Hơn nữa, việc vận dụng và thực thi pháp luật của những người có trách nhiệm là chưa thực sự quyết liệt và hiệu quả. Để quản lý tốt việc xả thải tại các KCN, tôi cho rằng trong thời gian tới đây chúng ta cần nghiên cứu, xây dựng các văn bản pháp luật quy định một cách cụ thể hơn về việc xây dựng hạ tầng xử lý chất thải. Cùng với đó, trong các văn bản xử phạt cần phải tăng chế tài xử phạt đối với các hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường. Các chế tài này phải đảm bảo đủ sức răn đe đối với những đối tượng có hành vi xả thải ra môi trường, kiên quyết không có sự nương tay cho những hành vi gây ô nhiễm môi trường dù đối tượng này là bất cứ ai.

TS Trần Thế Loãn, nguyên Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Nhận thức đúng đắn về môi trường trong phát triển kinh tế

Theo Luật Bảo vệ môi trường, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường gồm 2 loại: quy chuẩn môi trường xung quanh và quy chuẩn chất thải; các địa phương có thể đưa ra quy chuẩn riêng nghiêm ngặt hơn quy chuẩn quốc gia để bảo vệ môi trường. Do đó, các địa phương cần phải nhận thức đúng đắn về tác động của môi trường khi phê duyệt các quy hoạch phát triển kinh tế (cho các ngành và các cấp địa phương); sau khi đã phê duyệt quy hoạch thì không nên thường xuyên bổ sung quy hoạch mà chỉ nên xem xét đánh giá lại quy hoạch một cách tổng thể sau 1 khoảng thời gian nhất định, ít nhất 5 năm. Đặc biệt, vấn đề môi trường phải được xem xét trước khi quyết định đầu tư.

GS Đặng Hùng Võ, Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Vấn đề đặt ra là việc bảo vệ môi trường có thực thi được tốt hay không tốt phụ thuộc vào cơ chế giám sát, kiểm tra thanh tra của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, cần mở rộng quyền giám sát cho các tổ chức xã hội và người dân, để họ được tham gia trực tiếp giám sát. Khi trao quyền giám sát trực tiếp cho người dân thì người dân chính là tai mắt rất cụ thể ở địa phương. Đồng thời các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm quản lý việc gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm tiếp nhận ý kiến giám sát của người dân, gắn với trách nhiệm giải trình. Tuy vậy, để người dân tham gia giám sát cũng cần có quy định cụ thể. Hiện nay duy nhất mới chỉ có Luật Đất đai có 1 điều khoản cho phép người dân giám sát trực tiếp, còn các luật khác không có. Tôi đề nghị Quốc hội bổ sung ngay vào Luật Bảo vệ môi trường mới được thông qua.