Tái định cư thủy điện: Nơi ở mới phải hơn nơi ở cũ

ThienNhien.Net – Ưu tiên đất cho các công trình thủy điện, một bộ phận nhân dân đặc biệt là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống sẵn sàng di dân nhường đất. Hầu hết các hộ dân này đều nhận được những lời hứa “nơi ở mới phải hơn nơi ở cũ”, nhưng thực tế cuộc sống nơi ở mới không được như mong đợi. Đó là những thông tin được đưa ra tại diễn đàn thường niên về phát triển dân tộc thiểu số do Ủy ban Dân tộc phối hợp với Hội đồng Dân tộc của Quốc hội tổ chức sáng qua (29-1), tại Hà Nội.

Một góc khu tái định cư thị xã Mường Lay (Điện Biên). (Ảnh: Vũ Lam)
Một góc khu tái định cư thị xã Mường Lay (Điện Biên). (Ảnh: Vũ Lam)

Ý kiến của dân chỉ là lấy lệ

Theo Viện Nghiên cứu Phát triển Mê Kông, để có các cuộc di dân phải nhận được sự đồng thuận của người dân, tuy nhiên, hầu hết các cuộc họp của nhà đầu tư và chính quyền với người dân chỉ mang mục đích thông báo. Ý kiến của người dân gần như không có khả năng thay đổi quyết định đã được thông qua. Ngay cả việc công bố thông tin cũng chưa được thực hiện hiệu quả, dẫn đến tình trạng phần lớn các hộ dân không nắm được vấn đề và các chính sách liên quan. Trong khi đó, các hỗ trợ hậu tái định cư phần lớn mang tính ngắn hạn, mức thấp trong quá trình ổn định cuộc sống và phục hồi sản xuất. Nếu nhận được hỗ trợ thì hiệu quả của những sự hỗ trợ này là rất thấp. Thực tế, số lượng người dân di dân tái định cư thủy điện rất nhiều, nhưng sự hỗ trợ họ nhận được rất thấp. Hầu hết những sự hỗ trợ được thiết kế đều không dựa trên những phân tích và nhu cầu thực tế, phong tục tập quán hay kỳ vọng của người hưởng lợi.

Thậm chí, nhiều hỗ trợ đã được chủ đầu tư cam kết nhưng không thực hiện gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của người dân. Thực tế thì, niềm tin của người dân vào chủ đầu tư và chính quyền địa phương suy giảm do nhiều cam kết và thông tin ban đầu về cuộc sống ở vùng tái định cư không được thực hiện, hoặc không đúng với thực tế. Bởi, ngoài những phản ánh về mức đền bù không được nhận theo cam kết ban đầu, nhiều hộ cho biết sự hỗ trợ không được thực hiện. Chẳng hạn, trường hợp tại thủy điện A Vương, người dân bày tỏ bức xúc liên quan đến cam kết của chủ đầu tư về việc miễn phí tiền điện trong khoảng thời gian đầu chuyển đến nơi ở mới. Thực tế thì người dân vẫn phải trả khoản tiền này.

Khó khăn nhất đối với người dân tái định cư thủy điện có lẽ nằm ở việc thiếu đất sản xuất hoặc đất tại nơi ở mới chất lượng quá thấp so với đất ở nơi ở cũ. Rõ ràng, tình trạng thiếu quỹ đất cho hoạt động nông nghiệp xảy ra ở hầu hết các khu tái định cư. Đây là vấn đề bức xúc nhất. Trong khi đó, nhiều công trình mặc dù người dân chuyển đến nơi ở mới một thời gian dài nhưng không hề được giao đất sản xuất, khiến các hệ lụy của không có việc làm đã xảy đến với các hộ dân này. Chính những bất cập này trở thành những lý do chính khiến tình trạng đói nghèo ở các vùng di dân tái định cư thủy điện ngày càng phổ biến và có xu hướng gia tăng.

Hài hòa lợi ích

Làm sao để ổn định cuộc sống người dân vùng tái định cư thủy điện, nhiều ý kiến cho rằng cần tổng hòa các chính sách, sự chung tay vào cuộc của cả cộng đồng, đặc biệt phải có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của chủ đầu tư đối với những người đã nhường đất cho công trình thủy điện. TS Phùng Đức Tùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Mê Kông đề nghị, cần có cơ chế “chia sẻ lợi ích” giữa người dân và doanh nghiệp đầu tư vào thủy điện. Cụ thể, doanh thu thu được sau khi đưa các công trình thủy điện đưa vào hoạt động có thể sử dụng để phục vụ cho các cộng đồng bị ảnh hưởng để nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các chương trình phát triển ở địa phương. Cần đưa vào luật cơ chế này để chia sẻ lợi ích của dự án với các cộng đồng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống hậu tái định cư thủy điện. Cũng rất cần một cơ quan giám sát độc lập việc thực hiện hỗ trợ, những lời hứa của chủ đầu tư với người dân nhường đất nhằm đảm bảo quyền lợi của các hộ dân bị ảnh hưởng.

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Sơn Phước Hoan cho rằng, sự thay đổi sâu sắc về cấu trúc nền kinh tế và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của chính sách đổi mới của Chính phủ Việt Nam thể hiện qua các hoạt động như di dân, công nghiệp hóa và đô thị hóa đã tạo ra các lực đẩy để giảm nghèo cho vùng dân tộc thiểu số. Song gần như những chính sách này chưa “chạm” tới vùng dân tộc thiểu số. Vì vậy, cần kế hoạch hành động cụ thể thúc đẩy việc nâng cao đời sống cho vùng dân tộc.